T
Thanh Tran
Thành viên sáng lập
Alfred de Vigny
(1797-1863)
I. TỪ QUÂN NGŨ ĐẾN TAO ĐÀN VÀ THÁP NGÀ1. Đời lính lận đận (1797-1825)
Alfred de Vigny xuất thân trong một gia đình quý tộc phá sản sau cách mạng 1789, tại Loches thuộc vùng Touraine, có truyền thống về võ bị: thân phụ và ông ngoại đều là tướng, tá có chiến công hiển hách. Từ bé, Alfred được nuôi dưỡng trong niềm tự hào ấy và hi vọng có một tương lai sáng sủa trong quân ngũ với mong ước lập sự nghiệp anh hùng. Gia nhập quân đội dưới thời Trung hưng, lúc mới 16 tuổi, năm 1815, Alfred là thiếu úy trong đội cận vệ hoàng gia và đã tháp tùng Louis XVIII chạy trốn trong sự kiện 100 ngày, khi Napoléon Bonaparte trở về Paris. Viên sĩ quan trẻ ngày càng chán ghét cảnh nhàn hạ trong trại lính nơi biên giới, lại thêm phải chứng kiến những cảnh đáng buồn trên đường hành quân. Thực trạng xã hội gợi cho ông niềm luyến tiếc những vinh quang chinh chiến thời Napoléon. Tâm trạng ấy khiến ông chán nản, bất bình và giải ngũ năm 1825.
2. Nhà thơ hoài nghi và kiêu hãnh (1826-1845)
Alfred de Vigny bắt đầu tiếp xúc với phong trào lãng mạn qua tạp chí Nàng thơ Pháp (La muse française), từ thời còn ở trong quân đội, với bài thơ đầu tiên: Cuộc vũ hội (Le bal), đăng trên tạp chí ấy và sau này in trong tập Những vần thơ (Poèmes), 1823. Ngay lúc bấy giờ các phòng khách văn chương ở Paris xôn xao đón chào Vigny như một nhân tài mới, có “chiều sâu lãng mạn đặc biệt”. Năm 1827, ông tham gia Tao đàn lãng mạn của Victor Hugo và Sainte Beuve. Thành công tiếp theo của ông là tuyển tập Thơ cổ xưa và hiện đại (Poèmes antiques et modernes) được độc giả rất hoan nghênh, và tập truyện lịch sử Cùng Mars mà nhà văn xứ Scotland: Walter Scott rất khen ngợi. Năm 1835, ông chuyển sang viết kịch Chatterton và viết tiểu thuyết Vinh và nhục của nghề lính (Servitude et grandeur militaires). Những tác phẩm này đều được dư luận hoan nghênh. Thế nhưng, Vigny luôn cảm thấy không ai hiểu mình và có nỗi buồn trước những bi kịch xã hội, cũng như bi kịch riêng trong gia đình: mẹ mất, vợ bị bệnh nan y dài ngày, tình yêu sóng gió với nữ viên Marie Dorval… đã khiến ông hoài nghi tất cả. Say mê văn học Anh, trong thời gian này ông dịch Roméo và Juliette, Người lái buôn thành Venise (1829), và Othello của W. Shakespeare, để dàn diễn ở nhà hát kịch Pháp; được công chúng rất hâm mộ.
3. Người nghệ sĩ cô đơn trong tháp ngà (1845-1863)
Với số đông công chúng lúc bấy giờ, “nỗi đau thời đại” (le mal du siècle) dường như là một sự khủng hoảng hoặc mốt thời trang; nhưng với Vigny đó là một nỗi đau thấm tận đáy lòng. Nỗi cô đơn của Vigny trong gần hai chục năm cuối đời là do những dằn vặt của một niềm kiêu hãnh không toại nguyện. Về sự nghiệp, có thể kể các sự việc như: sau năm lần bị từ chối, mãi đến năm 1846 ông mới được đặt chân vào Viện Hàn lâm Pháp; sau đó là hai lần bị đánh bật khỏi nghị viện ở Charente và những lận đận do sự khống chế của chính thể Napoléon III. Về gia đình, người mẹ mà ông hết mực thương yêu mất sớm; rồi đến Lendy Benbury vợ ông, một phụ nữ Anh giàu có, bị bệnh nan y kéo dài, làm cả gia đình khánh kiệt... Do cảnh cô đơn ấy, Vigny trở nên lạnh lùng và bị quan: “Sự nghiêm nghị, lạnh lùng và âu sầu trong tính nết tôi không do bẩm sinh; mà là do cuộc đời”.
Những năm cuối đời, Vigny lui về ở hẳn Charente, trong lâu đài Maine Giraud, sống “cô đơn, khép kín trong tháp ngà” như Sainte Beuve nhận xét. Vigny xa lánh Paris, xa lánh xã hội. Thời gian này, nhà thơ suy ngẫm và viết nhiều mà không công bố. Năm 1863, Alfred de Vigny mất vì bệnh ung thư trong cảnh lạnh lẽo và đơn chiếc. Ông để lại cho con gái đỡ đầu là Louise Lachaud nhiều bản thảo có giá trị, xuất bản sau khi ông mất, như Nhật kí một nhà thơ (Journal d’un poète), 1867; Daphné, 1913, Hồi ức chưa công bố (Mémoires inédits), 1958, v.v... Những tác phẩm này giúp độc giả hiểu thêm về nỗi đau đời và tâm trạng của ông trước những cảnh đời ngang trái.
II. TÁC PHẨM CHÍNH
1. Thơ:
Những vần thơ (Poèmes), 1822. Sau bổ sung in lại thành
Thơ cổ xưa và hiện đại (Poèmes Antiques et Modernes), 1826.
Những số phận, 1863.
2. Tiểu thuyết:
Cùng Mars (Cinq-Mars), 1826.
Stello, 1832.
Vinh và nhục của nghề lính (Servitude et Grandeur Militaires), 1835.
3. Kịch:
Chatterton, 1835.
4. Thể loại khác:
Nhật kí một nhà thơ (Journal d'un Poète), 1867.
Thư từ, 1906.
Tổng hợp sách đã xuất bản: (đang cập nhật thêm)
- Vinh và Nhục của đời lính (Servitude et Grandeur Militaires) - NXB Hội Nhà Văn 2004. Người dịch: Hoàng Hữu Đản
Chỉnh sửa lần cuối bởi moderator: