Nobel 1982 Gabriel García Márquez (1928 - 2014)

Hà Huỳnh

Hà Huỳnh

Thành viên sáng lập
Gabriel José García Márquez (6/3/1928 – 17/4/2014) là một nhà văn người Colombia nổi tiếng. Ông còn là nhà báo và là một nhà hoạt động chính trị. García Márquez được trao Giải Nobel Văn học năm 1982.
Gabriel García Márquez.jpg

Nổi tiếng với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão (El otoño del patriarca), Tướng quân giữa mê hồn trận (El general en su laberinto) và hơn cả là Trăm năm cô đơn (Cien años de soledad), García Márquez là một đại diện tiêu biểu của nền văn học Mỹ Latinh. Tên tuổi của ông gắn liền với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.

Đặc biệt, trong năm tài khóa 2015 – 2016, Ngân hàng Trung ương Colombia (BRC) phát hành tờ hiện kim mệnh giá 50.000 Peso Colombia (COP), tương đương 17,43 USD có in hình ảnh nhà văn Gabriel José García Márquez. Tờ hiện kim mới phát hành có gam màu tím sáng chủ đạo, với 2 hình ảnh của Gabriel José García Márquez cùng xuất hiện trên một mặt đồng tiền, gồm chân dung bao trùm rìa bên phải; ở chính giữa là cảnh đứng thẳng cố giơ tay bắt đàn bướm phía trên thể hiện chủ nghĩa hiện thực huyền ảo mà Gabriel José García Márquez là đại diện tiêu biểu trong văn học”

Tiểu sử
Gabriel José García Márquez sinh tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Colombia, trong một gia đình trung lưu 16 người con mà ông là con cả. Cha của Marquez là Gabriel Eligio Garcia, một nhân viên điện tín đào hoa có nhiều con ngoài giá thú cả trước và sau khi kết hôn. Mẹ của Marquez là bà Luisa Marquez. Gabriel García Márquez lớn lên, những năm tháng đầu tiên trong một đại gia đình, ông ngoại là Nicolas Marquez, một cựu đại tá theo phái tự do từng chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Một ngàn ngày, bà ngoại là Tranquilina, cùng nhiều bác, dì...

Sau thời gian tuổi thơ, ông cùng cha mẹ chuyển đến Sucre, nơi cha của ông có một hiệu thuốc và hành nghề chữa bệnh bằng liệu pháp vi lượng đồng căn. Năm 1936, Marquez được bố mẹ gửi đến Barranquilla và Zipaquirá học phổ thông. Tới năm 1947, García Márquez tới Bogota, thủ đô của Colombia theo học tại Đại học Quốc gia Colombia và bắt đầu tham gia viết báo cho tờ El Espectador và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Năm 1948, ông tham cùng các sinh viên thủ đô tham gia biểu tình phản đối vụ ám sát Jorge Eliecer Gaitan, một chính khách tiến bộ, ứng cử viên tổng thống Colombia.

Sau khi học được năm học kỳ, García Márquez quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Ông cũng tham gia vào "Nhóm Barranquilla", một nhóm gồm các nhà báo xuất sắc và, thông qua họ, García Márquez bắt đầu tiếp xúc với các tác giả về sau có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ông: Franz Kafka, James Joyce, đặc biệt là William Faulkner, Virginia Woolf và Ernest Hemingway.

Năm 1954, Mutis, một người bạn, thuyết phục García Márquez trở lại Bogota tiếp tục làm báo và ông đã có một số phóng sự nổi tiếng. Năm 1955, García Márquez đến Thụy Sĩ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó ông tới Ý tham gia học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris, nơi García Márquez nhận được tin tờ El Espectador bị đình bản và nhận được vé máy bay về nước. Nhưng García Márquez quyết định ở lại Paris và sống trong điều kiện vật chất rất khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (Giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Cùng với người bạn thân Plinio Apuleyo Mendoza, García Márquez tới một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và viết nhiều thiên phóng sự về các quốc gia này.

Năm 1958, sau hai tháng ở London, García Márquez quyết định trở về châu Mỹ vì cảm thấy "những điều huyền thoại đang bị nguội lạnh"[cần dẫn nguồn] trong tâm trí. Ban đầu ông ở tại Caracas, thủ đô Venezuela, và làm cho báo Momentos cùng Plinio Apuleyo Mendoza. Chứng kiến vụ đảo chính chống nhà cầm quyền độc tài Perez Jimenez, García Márquez bắt đầu có ý định viết về các chế độ chuyên chế ở Mỹ Latinh. Trong một lần về thăm Barranquilla, García Márquez cưới Mercedes Barcha, người ông đã yêu từ trước khi sang châu Âu, sau đó họ có hai con trai: Rodrigo sinh năm 1959 và Gonzalo sinh năm 1960. Cũng ở Caracas, ông viết tập truyện ngắn Los funerales de la Mamá Grande (Đám tang bà mẹ vĩ đại).

Năm 1960, ngay sau khi Cách mạng Cuba thành công, García Márquez tới quốc gia này làm phóng viên cho hãng thông tấn Prensa Latina và làm bạn với Fidel Castro. Năm 1961, ông tới New York với tư cách phóng viên thường trú của hãng Prensa Latina của Cuba. Sau đó ông quyết định tới cư trú ở México và bắt đầu với điện ảnh bằng việc viết kịch bản phim. Trong khoảng thời gian từ 1961 tới 1965, với văn học, García Márquez không sáng tác một dòng nào, hậu quả của "tâm lý thất bại" với các tác phẩm trước đây.

Từ đầu năm 1965, García Márquez bắt đầu viết tác phẩm quan trọng nhất của mình: Cien años de soledad (Trăm năm cô đơn). Sau 18 tháng đóng cửa miệt mài viết, khi tác phẩm hoàn thành cũng là lúc tình trạng tài chính gia đình đặc biệt khó khăn. Để có tiền gửi bản thảo cho nhà xuất bản Nam Mỹ ở Argentina, García Márquez đã phải bán nốt những vật dụng giá trị trong nhà. Năm 1967, Trăm năm cô đơn được xuất bản và ngay lập tức giành được thành công lớn, được cả giới phê bình và độc giả mến mộ. Sau đó García Márquez tách từ Trăm năm cô đơn một sự kiện và viết thành tiểu thuyết ngắn La increíble y triste historia de la cándida Eréndira y de su abuela desalmada (Truyện buồn không thể tin được của Erendira và người bà bất lương).

Từ năm 1974, García Márquez sống ở México, Cuba, thành phố Cartagena của Colombia và Paris, tham gia các hoạt động chính trị với tư cách một nhà văn nổi tiếng. Năm 1975 ông viết El otoño del patriarca (Mùa thu của vị trưởng lão) và năm 1981 cho ra đời Crónica de una muerte anunciada (Ký sự về một cái chết được báo trước). Cũng năm 1981, ông bị chính phủ bảo thủ Colombia vu cáo là đã bí mật cung cấp tài chính cho phong trào du kích cánh tả M-19, García Márquez phải sang sống lưu vong tại Mexico trong tình trạng thường xuyên bị đe dọa ám sát.

Năm 1982, Viện hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn học cho García Márquez. Trước đó ông cũng được chính phủ Pháp tặng huân chương Bắc đẩu bội tinh. Năm 1985, García Márquez xuất bản cuốn tiểu thuyết lớn tiếp theo của ông, Tình yêu thời thổ tả, lấy cảm hứng chính từ mối tình của cha mẹ ông. Năm 1986, García Márquez vận động thành lập Quỹ Điện ảnh mới của Mỹ Latinh và trực tiếp thành lập Trường điện ảnh San Antonio de los Banos ở Cuba, nơi hàng năm ông tới giảng dạy một khóa ngắn về viết kịch bản.

Năm 1989, García Márquez viết El general en su laberinto (Tướng quân giữa mê hồn trận), tiểu thuyết lịch sử về Simon Bolivar, một người đấu tranh giải phóng các nước Mỹ Latinh. Năm 1992, ông viết Doce cuentos peregrinos (Mười hai truyện phiêu dạt), một tập truyện ngắn dựa trên các sự kiện báo chí. Năm 1994, ông cho xuất bản tiểu thuyết Del amor y otros demonios (Tình yêu và những con quỷ khác), lấy bối cảnh là thành phố Cartagena và tình yêu giữa một thầy tu 30 tuổi và con chiên là một đứa trẻ mới 12 tuổi.

Cuối năm 1995, một nhóm bắt cóc đã thực hiện vụ bắt cóc Juan Carlos Gaviria, em trai cựu tổng thống với điều kiện là García Márquez phải lên làm tổng thống. Năm 1996, García Márquez hoàn thành cuốn Noticia de un secuestro (Tin tức một vụ bắt cóc), một thiên phóng sự được tiểu thuyết hóa về vụ những kẻ buôn lậu ma túy bắt cóc mười người, trong đó có tám nhà báo.

Năm 2002, mặc dù sức khỏe yếu, García Márquez đã hoàn thành cuốn hồi ký đầu tiên Vivir para contarla (Sống để kể lại) về 30 năm đầu của đời mình, trước khi tới châu Âu lần thứ nhất. Tháng 10 năm 2004, García Márquez xuất bản cuốn Memoria de mis putas tristes (Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi).

García Márquez qua đời ở tuổi 87 vào ngày 17 tháng 4 năm 2014 tại thành phố Mexico City, Mexico nơi ông đã sống hơn 30 năm.
Chữ ký Gabriel García Márquez.png
Chữ ký của Gabriel García Márquez

Tác phẩm
  • Eyes of a Blue Dog (1947)
  • Leaf Storm (1955)
  • No One Writes to the Colonel (1961)
  • Big Mama's Funeral (1962)
  • In Evil Hour (1962)
  • One Hundred Years of Solitude (1967)
  • The Story of a Shipwrecked Sailor (1970)
  • The Incredible and Sad Tale of Innocent Eréndira and Her Heartless Grandmother (1972)
  • The Autumn of the Patriarch (1975)
  • Chronicle of a Death Foretold (1981)
  • The Fragrance of Guava (1982, with Plinio Apuleyo Mendoza)
  • The Solitude of Latin America (1982)
  • Collected Stories (1984)
  • Love in the Time of Cholera (1985)
  • Clandestine in Chile (1986)
  • The General in His Labyrinth (1989)
  • Changing the History of Africa: Angola and Namibia (1991, with David Deutschmann)
  • Strange Pilgrims (1993)
  • Of Love and Other Demons (1994)
  • News of a Kidnapping (1996)
  • A Country for Children (1998)
  • Living to Tell the Tale (2002)
  • Memories of My Melancholy Whores (2004)
  • The Scandal of the Century: Selected Journalistic Writings, 1950–1984 (2019)
Mặc dù là một trong những tác giả nước ngoài nổi tiếng và có nhiều đầu sách được dịch ra tiếng Việt, không một tác phẩm nào của Gabriel García Márquez được mua bản quyền hợp pháp để xuất bản (theo wiki).

Tổng hợp các sách đã xuất bản: (Đang cần cập nhật)
- Trăm năm cô đơn - NXB Văn học 1986
- Tình yêu thời thổ tả - NXB Văn Học 2000. Nguyễn Trung Đức dịch
- Hồi ức vè những cô gái điếm buồn của tôi - First News & NXB Tổng Hợp TPHCM 2005. Lê Xuân Quỳnh dịch
- Trăm năm cô đơn - Bìa cứng, NXB Văn Học 2008. Người dịch: Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng
- Trăm năm cô đơn - NXB Văn Học 2012. Người dịch: Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng
- Trăm năm cô đơn - Huy Hoang & NXB Văn Học 2016. Nguyễn Trung Đức dịch
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi moderator:
BTBookstore

BTBookstore

Thành viên sáng lập
Gabriel Garcia Marquez - Người lạc quan chí cuối

Ngày 6/03/2007, Gabriel Garcia Marquez - Nhà văn Colombia từng đượng tặng giải Nobel văn học năm 1982 vừa tròn 80 tuổi. Tuy tác giả “Trăm năm cô đơn” đã tuyên bố gác bút từ hai năm trước, song những tác phẩm của ông vẫn tiếp tục thu hút sự quan tâm, và ảnh hưởng của nhà văn đối với đối với dư luận Mỹ latin vẫn mạnh mẽ và chưa nào lường xuể. Năm 2007 được toàn dân châu Mỹ latin cùng với Tây Ban Nha quyết định chọn làm năm G.G. Garcia Marquez với những hoạt động văn hóa rộng khắp toàn cầu.

Gabriel Garcia Marquez chào đời năm 1927 tại Aracataca một thị trấn nhỏ thuộc “thủ đô của chuối”, nằm lánh khuất bên vịnh biển Caribe. Bốn chục năm sau địa điểm này được biết đến rộng rãi với “hai chục ngôi nhà tranh vách đất, bên bờ một con sông chảy xiết, dòng nước trong vắt tuồn qua những hòn đá trắng nhẵn tín và to như những quả trứng còn sót lại từ thời tiền sử”. Tác giả cửa những trang viết quyến rũ đó, ở lứa tuổi nào cũng đều được gọi một cách thân mật là Gabo. Tuổi thơ của Gabo gắn bó với ông bà ngoại cùng người dì, những người có tài kể chuyện bẩm sinh và thuộc rất nhiều folklore địa phương. Cho đến năm 9 tuổi, Gabo bắt đầu được chuyển về sống với bố mẹ. Cặp bố mẹ trẻ này là những người có máu phiêu du, họ đã kinh qua một mối tình giông bão, sau này được cậu con trai sử dụng làm nền tảng cho cuốn tiểu thuyết lừng danh “Tình yêu thời thổ tả”. 15 tuổi, Gabo được gửi vào một nhà trọ cách Bogota không xa, ấy là do người cha muốn con được chuẩn bị tử tế để bước vào trường đại học. Trên thục tế, thời ở trọ, cậu thiếu niên Gabo đã tiếp thu đầy đủ những tố chất của ông bà và người dì nơi quê ngoại nên không kiềm được niềm say mê đối với công việc viết văn. Đến khi được gọi vào trường đại học tổng hợp ở Bogota và Cartagena, Gabo theo học ngành luật, nhưng rồi thấy nghề làm báo hấp dẫn hơn, bèn quyết định bỏ học, rẽ ra làm phóng viên. Anh rời Cartagena đến Barranquilla, trọ trong một căn phòng nhỏ hẹp kế sát một ngôi nhà để hí hoáy viết. Chính ở chốn cư trú rất đặc biệt bên bến cảng của dòng sông Cái Magdalena, những cuộc gặp gỡ tình cờ và khó quên của chàng phóng viên trẻ ngày ấy đã làm nên “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi” sau này. Năm 1954 Gabo trở về thủ đô để làm cho tờ báo El Espectador. Colombia bấy giờ chìm trong một cuộc nội chiến tràn lan mỗi ngày một rộng. Gabo tiếp cận với những người cộng sản địa phương, nhưng được thủ lĩnh của họ khuyên rằng nếu không có ý định vào đảng thì chàng trai trẻ hãy đừng chuốc lấy nguy hiểm và bớt lui tới những chỗ thường xuyên bị mật thám dòm ngó. Nhà báo trẻ nghe lời và thôi không đến dự những cuộc họp kín nữa, nhưng về sau vẫn tìm mọi cách ủng hộ các nhà hoạt động cánh hữu. Vào giữa thập niên 50 của thế kỷ vừa rồi, tòa soạn El Esspectador cử Marquez sang làm phóng viên thường trú tại Châu Âu. Nhà văn tương lai đã có những năm tháng tuyệt vời ở Paris, Roma, đến khắp các nước Đông Âu, thăm Liên Xô và phải mất đến 15 lần viết đi viết lại cuốc truyện “Mùa thu trưởng lão”. Tác phẩm đầu tay “Lá đổ” được công bố chính trong thời gian này, nhưng không gây được tiếng vang đáng kể, còn “Mùa thu trưởng lão” bị tác giả “ngâm” đến 17 năm rồi mới chịu đưa in.

Đầu thập niên 60, Gabo chơi thân với nhà báo Argentina Jogre Ricardo Masetti, một người tin của nhà cách mạng Che Guevara, và trở thành một phóng viên của hãng thông tấn Cuba: Prensa Latina. Chính nhờ công việc ở cương vị ấy mà ông có cơ hội đến New York, rong ruổi khắp miền nam Hoa Kỳ, tận mắt chiêm ngưỡng Yoknapatawpha – cái xứ sở không hề được ghi tên trên bản đồ nhưng lại có chủ sở hữu bằng thực, đó là văn hào William Faulkner. Sau chuyến đi ấn tượng ấy, Gabriel Garcia Marquez đã tạo nên được một thế giới độc đáo và huyền ảo của riêng mình – làng Macondo với vùng phụ cận. Nhà văn tiếp tục khai thác những chuyện của bảy thế hệ thuộc dòng họ Buendia để làm nên một “Trăn năm cô đơn” độc đáo.

Năm 1966, để có thể gửi qua đường bưu điện bản thảo “Trăm năm cô đơn” của chồng cho một nhà xuất bản ở Argentina, bà Mercedes Barch, người bạn đời của Gabo, đã phải đem cả chiếc lò sưởi, vật có giá trị cuối cùng của gia đình đến hiệu cầm đồ, vì Gabo đang trong hoàn cảnh không một xu dính túi. Ngay trong tuần phát hành đầu tiên ở Buenos Aires, toàn bộ 8000 bản in thử “Trăm năm cô đơn” đã được bán hết sạch. Giới phê bình văn học Mỹ Latin nhất loạt gọi đó là kiệt tác. Tiếp đó, thành công của “Trăm năm cô đơn” ở những nước sử dụng tiếng Tây Ban Nha thực sự là lẫy lừng. Nhà văn trẻ chưa đầy 40 tuổi bước lên đỉnh cao vinh quang. Năm 1972, Gabriel Garcia Marquez lên nhận giải thưởng văn học “Romulo Gallegos” uy tín nhất Tây Ban Nha và năm 1982, khi tác giả được nhận giải Nobel văn học, “Trăm năm cô đơn” đã được dịch ra hai chục thứ tiếng. Đến thời điểm này, tác phẩm đó đã được truyền bá ra 36 thứ tiếng trên toàn thế giới. Theo nhận định của giới phê bình văn học, thành công của Gabo là ở chỗ nhà văn đã có vốn ngôn ngữ giàu có và phong cách hoàn thiện, đồng thời biết kết hợp hài hòa truyền thống văn học Mỹ Latinh với vốn cổ dân gian, làm cho mỗi tác phẩm của ông đều độc đáo và thăng hoa. Chính nhờ những phẩm chất đó được thể hiện rất dồi dào trong sáng tác của Gabo mà các nhà lý luận văn học đã coi ông là người mở đường cho một khuynh hướng mới trong văn học thế giới - chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Đã trở thành người Colombia nổi tiếng nhất thế giới, nhưng về phần mình, Gabried Garcia Marquez chỉ thích được gọi là “người lạc quan chí cuối”. Bản thân làm nghề báo hơn hai chục năm, nhưng Gabried Garcia Marquez rất ít khi chịu trả lời phỏng vấn. Trong một lần tự bạch hiếm hoi, nhà văn tiết lộ danh tính những bậc tiền bối đã để lại ảnh hưởng to lớn trong thế giới tinh thần của ông, đó là William Faulkner, Ernest Hemingway (Hoa Kỳ), Franz Kafka (Tiệp Khắc), Virginia Woolf (Anh), là cuốn “Ngàn lẻ một đêm” mà ông đọc từ năm lên 7, và những bi kịch của SophocleNững năm 70, Gabo lưu trú không ít thời gian tại Cuba, nơi ông kết bạn và rất thân thiết với Fidel Castro. Mối quan hệ giữa nhà văn và chính giới ở Mỹ Latin có lẽ đã tìm được ví dụ tiêu biểu nhất ở Gabo. Một mặt ông luôn luôn tuyên bố ủng hộ chế độ Cộng sản ở Hòn đảo tự do, mặt khác ông lại cộng tác, lại hỗ trợ cho những người Cuba di tản sang Hoa Kỳ có được cuộc sống ổn định. Người ta thường trách nhà văn sa đà vào chuyện chính trị, nhưng nhà văn bao giờ cũng đáp lại rằng ông thích quan sát, xem con người bị chế ngự thế nào bởi tham vọng chính trị của mình, vì đó là mảnh đất hết sức phì nhiêu cho nhà tiểu thuyết.

Trong suốt thập niên 80, Gabried Garcia Marquez vẫn cứ là nhân vật khổng lồ của một nền văn hóa tầm cỡ của không chỉ châu Mỹ, mà cả toàn cầu. Ông viết ít dần đi, song bù lại, ông dồn tâm sức một cách nghiêm chỉnh cho việc hỗ trợ các nhà văn trẻ. Năm 2002, sau một thời gian im lặng khá dài, nhà văn cho công bố cuốn hồi ức “Sống để mà kể lại” và hứa hẹn rằng đây mới chỉ là cuốn mở đầu cho bộ sách ba tập… Cùng với thời gian, lòng hâm mộ Gabriend Garcia Marquez đạt đến mức xảy ra chuyện om sòm: Năm 2004, người ta đã đánh cắp bản thảo của ông, một cuốn truyện chỉ mỏng có 104 trang với nhan đề “Hồi ức về những cô gái điềm buồn của tôi”, rồi cho in lậu, phát hành tứ tung, gay nên một vụ scandal lớn chưa từng thấy.

Xung quanh ông cũng đã từng xảy ra một chuyện hết sức bi hài: Năm 2000, trên tờ La Republica (Peru) có đăng một thông báo là nhà văn Gabriend Garcia Marquez “vừa từ trần”, kèm theo đó là một “bài thơ tuyệt bút” của ông. Đến khi điều tra ra, cả bản in lẫn bài thơ nọ đều là hàng “rỏm” do một tên sâu mọt truyền thông ở Mexico chế tác… Năm 2006, trên tờ La Vanguardia (Tây Ban Nha), Gabried Garcia Marquez bất ngờ thú nhận rằng mình không còn đủ sức để mà cẩm bút. Được biết, từ năm 1999, bác sĩ đã cho biết ông bị trọng bệnh, liệu đấy – hay sự mệt mỏi trước những vấn đề ông phải liên miên giải quyết, mới là lý do dẫn đến lời thú nhận gây sửng sốt hàng trăm người ái mộ? Đã có lần Gabried Garcia Marquez giải thích thành công của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo mà ông là chủ soái: “Bạn thấy không: Nếu như bạn loan tin rằng có con voi đang bay ở trên trời, thể nào cũng có người bất giác ngẩng đầu lên!”. Vậy cho nên, lời tuyên bố “giã từ vũ khí” của ông có lẽ cũng là cách nhà văn đẩy người hâm mộ vào hoàn cảnh “Tướng quân giữa mê hồn trận”. Ông vốn là nhà sáng tác với một phong cách biệt tài và sức cuốn hút vô song… theo một người bạn thân là Plinio Apuleyo Mendoza tiết lộ, thì thời điểm này, Marquez vẫn đang gấp rút hoàn thành cuốn hồi ký thứ hai, trong đó ghi lại những đoạn đời sâu đậm nhất của nhà văn. Còn trên thực tế thì Marquez không hề buông lơi hoạt động chính trị cũng như những hoạt động từ thiện. Cuối năm 2006, nhà văn cùng với nữ ca sĩ đồng hương xinh đẹp Shakira làm cốt cán cho Quĩ thúc đẩy kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở Mỹ Latin. Ông không bao giờ ở lâu một chỗ, mà thường xuyên luân chuyển từ ngôi nhà này sang ngôi nhà khác, từ Cartagena đến Barrraquilla, khi ở Mexico, khi ở Paris, khi ở Barcelona. Vị lão trượng này có một đôi cánh rộng. Số phận đã bày đặt như thế. Tinh thần toát lên từ không chỉ cuộc đời, mà từ cả sự nghiệp sáng tạo của một trong những nhà văn kiệt xuất nhất nhân loại, rốt cuộc lại gắn liền với một con số huyền thoại: Số 7. Sáu chục năm về trước (1947): Marquez được in thiên truyện ngắn đầu tiên, khiến chàng sinh viên Luật khoa của Bogoota quyết định giã từ danh vọng của một trạng sư để dồn toàn bộ đời mình cho lao động sác tác văn chương. Bốn chục năm về trước (6/1967) cuốn tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” ra đời, mang lại cho tác giả danh tiếng quốc tế. Vào năm 77 tuổi (2004), nhà văn cho công bố cuốn “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”. Và đến tháng 12/2007 sẽ là tròn một phần tư thế kỷ kể từ ngày nhà văn Gabried Garcia Marquez lên nhận giải thưởng Nobel.​
 
Hạo Nhiên Books

Hạo Nhiên Books

Moderator
Thành viên BQT
Trăm năm cô đơn - NXB Văn Học 2012. Người dịch: Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng
20221208_084710.jpg
 
Hạo Nhiên Books

Hạo Nhiên Books

Moderator
Thành viên BQT
Trăm năm cô đơn - Bìa cứng, NXB Văn Học 2008. Người dịch: Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng
20221208_085031.jpg
 
Hạo Nhiên Books

Hạo Nhiên Books

Moderator
Thành viên BQT
Trăm năm cô đơn - Huy Hoang & NXB Văn Học 2016. Nguyễn Trung Đức dịch
20221216_094039.jpg
 
Sách Cũ Sài Gòn

Sách Cũ Sài Gòn

Moderator
Thành viên BQT
Trăm năm cô đơn
NXB Văn học 1986, 512 trang
1671510173100.jpeg
 
Hạo Nhiên Books

Hạo Nhiên Books

Moderator
Thành viên BQT
Hồi ức vè những cô gái điếm buồn của tôi - First News & NXB Tổng Hợp TPHCM 2005. Lê Xuân Quỳnh dịch
20221221_114049.jpg
 
Hạo Nhiên Books

Hạo Nhiên Books

Moderator
Thành viên BQT
Tình yêu thời thổ tả - NXB Văn Học 2000. Nguyễn Trung Đức dịch
20230103_124334.jpg
 
Top