Sách Cũ Sài Gòn
Moderator
Thành viên BQT
TIỂU SỬ
Hermann Karl Hesse (2 tháng 7 năm 1877 ở Calw, Đức – 9 tháng 8 năm 1962 ở Montagnola, Thụy Sĩ) là một nhà thơ, nhà văn và họa sĩ người Đức. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học vào năm 1946.
Trong các bức thư gửi cha mẹ ông đã bày tỏ quan điểm của mình là "đạo đức của người nghệ sĩ đã được thay thế bởi thẩm mỹ". Tháng 10 năm 1895, Hermann Hesse làm việc tại tiệm bán sách Heckenhauer ở Tübingen, một tiệm bán sách về thần học, triết học và luật. Sau mỗi ngày làm việc 12 tiếng Hesse tự học những sách về thần học, đặc biệt là các tác phẩm của Goethe, Lessing, Schiller và các bài về thần thoại Hy Lạp. Năm 1896 bài thơ đầu tiên của Hermann Hesse, "Madonna" được in trong một tạp chí xuất bản ở Wien, các bài thơ khác lần lượt được đăng trong các số phát hành của Organ für Dichtkunst und Kritik (Cơ quan về nghệ thuật thơ và phê bình). Năm 1898 Hermann Hesse đọc chủ yếu các tác phẩm của thời kỳ lãng mạn Đức như Clemens Brentano, Joseph Freiherr von Eichendorff và Novalis. Mùa thu 1898 Hermann Hesse xuất bản tập thơ đầu tiên: Romantische Lieder (Các bài hát lãng mạn), và mùa hè 1899 tập văn xuôi Eine Stunde hinter Mitternacht (Một giờ đằng sau nửa đêm). Cả hai tác phẩm đều thất bại về mặt kinh doanh. Trong vòng hai năm chỉ bán được 54 bản trong tổng số 600 quyển Romantische Lieder được phát hành, Eine Stunde hinter Mitternacht cũng được phát hành 600 quyển và được bán rất chậm.
Ðầu mùa thu 1899, Hermann Hesse làm việc cho một tiệm bán sách cũ có uy tín ở Basel, tại đây cả một thế giới tri thức nghệ thuật với nhiều cổ vũ phong phú đã mở cửa ra đón chào ông. Thành phố Basel đồng thời cũng mang lại cho một con người sống cô độc như Hermann Hesse về sống ẩn náu, ông đi du ngoạn, đi dạo để tự tìm tòi nghệ thuật và giúp ông dùng bút mực miêu tả những cảm xúc của mình. Năm 1900 Hermann Hesse được miễn phục vụ quân sự vì thị lực yếu. Bệnh tật này tồn tại mãi suốt cuộc đời cũng như bệnh đau đầu của ông. Năm 1901 Hermann Hesse đi du lịch nước Ý và chuyển về làm tại tiệm bán sách cũ Wattenwyl ở Basel, thời gian này ông có nhiều cơ hội để đăng các bài thơ và văn ngắn trên các tạp chí. Nhà xuất bản Samuel Fischer đã chú ý đến quyển tiểu thuyết Peter Camenzind và cho in thử năm 1903, phát hành năm 1904.
Năm 1957 Karlheinz Deschner viết trong bài văn tranh luận Kitsch, Konvention und Kunst: "Việc Hermann Hesse xuất bản quá nhiều các vần thơ hoàn toàn không có trình độ như vậy là một điều vô kỷ luật đáng tiếc, một sự man rợ về văn học". Trong các thập kỷ sau đó, giới phê bình văn chương Đức nối tiếp đánh giá nhữngtác phẩm của Hermann Hesse, một vài nhà xuất bản xếp vào loại văn chương của ông vào loại giả mạo. Việc chấp nhận Hermann Hesse xuống đến điểm thấp nhất ở Ðức vào thập niên 1960 trong khi giới thanh niên ở Mỹ phát ra một sự "bùng nổ Hesse" và lan tràn về lại Đức; đặc biệt quyển Der Steppenwolf trở thành quyển sách bán chạy nhất (bestseller) và Hesse trở thành tác giả người Đức được đọc và dịch nhiều nhất. Hơn 100 triệu quyển sách của ông đã được bán trên khắp thế giới. Để tưởng niệm Hermann Hesse lãnh hai giải thưởng văn chương, ông được đặt tên là: Giải thưởng Hermann Hesse và Giải thưởng văn học Hermann Hesse.
Giải thưởng Nobel dành cho Hermann Hesse không chỉ đơn thuần là sự khẳng định danh tiếng của ông mà nó còn tôn vinh thành quả văn thơ của ông thể hiện qua hình ảnh một con người tốt trong cuộc đấu tranh văn học của ông, đi theo tiếng gọi của sự trung thành, một người đã thành công trong trọng trách bảo vệ cho chủ nghĩa nhân đạo đích thực. Anders Österling, Thư ký của Viện Hàn lâm Thụy Điển đã tuyên dương Hermann Hasse như sau: "Giải Nobel Văn học năm 1946 được trao cho một nhà văn gốc Đức, người được giới phê bình ca ngợi rộng rãi và là người đã sáng tác bất chấp thị hiếu công chúng. Nhà văn Hermann Hesse 69 tuổi giờ có thể nhìn lại những thành tựu đáng kể của mình, bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ, một phần trong số đó đã được dịch sang tiếng Thụy Điển. Tập thơ Trost der Nacht (1929) (Niềm khuây khoả trong đêm) phản ánh một cách rõ nét phi thường không chỉ kịch tính nội tâm, sức khoẻ, những giờ khắc đau yếu và sự tự vấn quyết liệt của ông, mà cả sự hiến mình của ông cho cuộc sống, niềm vui trong hội hoạ và sự tôn sùng thiên nhiên. Tập thơ sau của ông Neue Gedichte (1937) (Những bài thơ mới), tràn đầy sự minh triết của một người ở tuổi xế bóng và những kinh nghiệm u sầu, nó cho thấy cảm xúc dâng trào trong hình ảnh, thể thức và giai điệu".
TÁC PHẨM
Năm 1899, Hermann Hesse phát hành tập thơ đầu tiên với những bài ca lãng mạn và viết nhiều bài phê bình, nhưng ít được chú ý. Năm 1904, tiểu thuyết lãng mạn giáo huấn Peter Camenzind mang đến thành công cho sự nghiệp văn chương đầu tiên cho ông, từ đó Hermann Hesse cống hiến hoàn toàn cuộc đời mình cho sự nghiệp sáng tác văn học, chủ yếu viết truyện ngắn loại tự thuật. Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết. Gertrud (1910), tiểu thuyết. Rosshalde (1914), tiểu thuyết. Knulp (1915), truyện vừa. Demian (1917), tiểu thuyết. Mùa hạ cuối cùng của Klingsors (Klingsors letzter Sommer, 1918), truyện vừa, (Klingsor's last summer). Siddhartha, Bản trường ca Ấn Ðộ (Siddhartha. Eine Indische Dichtung, 1920), tiểu thuyết. Thơ (Gedichte, 1922), tập thơ. Từ Ấn Ðộ (Aus Indien, 1923), thơ. Năm 1924, ông trở thành công dân Thụy Sĩ và xuất bản tiểu thuyết Sói đồng hoang (Der Steppenwolf,1927), một cuốn sách thuộc hàng best-seller. Narziss và Goldmund (Narziss und Goldmund, 1929), tiểu thuyết. Ðêm an ủi (Trost der Nacht, 1929), thơ. Hành trình về Phương Ðông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết (The journey to the East). Trò chơi với chuỗi hạt cườm (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết. Tiểu thuyết Trò chơi với chuỗi hạt cườm (xuất bản năm 1943) như một bản tổng hợp toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Hermann Hesse và nâng ông ông lên một tầm cao trong vấn đề sự dung hòa đời sống tinh thần và thế tục. Chiến tranh và hòa bình (Krieg und Frieden, 1946), (War and peace).
Trong thời kỳ đảng Quốc xã cầm quyền ở Đức, Hermann Hesse sống "lưu vong" ngay trên đất nước mình. Kể từ sau khi nhận giải Nobel, Hermann Hesse không viết thêm được tác phẩm nào ngoài các tiểu luận, thư từ. Gần 20 tác phẩm của Hermann Hesse đã được dịch sang tiếng Việt; có cuốn có đến hai ba bản dịch khác nhau; có cuốn được tái bản đến năm sáu lần, trong đó có hai tác phẩm nổi tiếng là Câu chuyện của dòng sông (nguyên tác: Siddhartha, tiểu thuyết), Phùng Khánh - Phùng Thăng dịch, NXB An Tiêm, 1967; NXB Lá Bối, 1965-1966; NXB Hội Nhà Văn, 1988-1996-1998-2001. Tuổi trẻ băn khoăn (nguyên tác: Demian, tiểu thuyết), Hoài Khanh dịch, NXB Ca Dao, 1968-1971-1974; NXB Hội Nhà Văn, 1998. (Tài liệu: Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây).
Tổng hợp sách đã xuất bản: (đang cập nhật thêm)
- Tuổi trẻ băn khoăn - Ca Dao xuất bản năm 1968. Hoài Khanh dịch
- Câu Chuyện Dòng Sông - An Tiêm in lần thứ 6 - 1974. Bản dịch của Phùng Khánh, Phùng Thăng
- Đôi bạn chân tình - NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2001. Vũ Đình Lưu dịch
- Hành trình sang Đông Phương (Die Morgenlandfahrt) - NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2001. Hoài Khanh dịch
- Mối tình của chàng nhạc sĩ - NXB Văn Hóa Sài Gòn xuất bản năm 2007. Vũ Đằng dịch
- Đâu mái nhà xưa - NXB Văn Hóa Sài Gòn xuất bản năm 2008. Hoài Khanh dịch
- Sói thảo nguyên (Der Steppenwolf, 1927) - Nhã Nam và NXB Văn Học phát hành năm 2013. Lê Chu Cầu dịch
- Nhà khổ hạnh và gã lang thang - Nxb Hồng Đức 2016
Hermann Karl Hesse (2 tháng 7 năm 1877 ở Calw, Đức – 9 tháng 8 năm 1962 ở Montagnola, Thụy Sĩ) là một nhà thơ, nhà văn và họa sĩ người Đức. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học vào năm 1946.
Trong các bức thư gửi cha mẹ ông đã bày tỏ quan điểm của mình là "đạo đức của người nghệ sĩ đã được thay thế bởi thẩm mỹ". Tháng 10 năm 1895, Hermann Hesse làm việc tại tiệm bán sách Heckenhauer ở Tübingen, một tiệm bán sách về thần học, triết học và luật. Sau mỗi ngày làm việc 12 tiếng Hesse tự học những sách về thần học, đặc biệt là các tác phẩm của Goethe, Lessing, Schiller và các bài về thần thoại Hy Lạp. Năm 1896 bài thơ đầu tiên của Hermann Hesse, "Madonna" được in trong một tạp chí xuất bản ở Wien, các bài thơ khác lần lượt được đăng trong các số phát hành của Organ für Dichtkunst und Kritik (Cơ quan về nghệ thuật thơ và phê bình). Năm 1898 Hermann Hesse đọc chủ yếu các tác phẩm của thời kỳ lãng mạn Đức như Clemens Brentano, Joseph Freiherr von Eichendorff và Novalis. Mùa thu 1898 Hermann Hesse xuất bản tập thơ đầu tiên: Romantische Lieder (Các bài hát lãng mạn), và mùa hè 1899 tập văn xuôi Eine Stunde hinter Mitternacht (Một giờ đằng sau nửa đêm). Cả hai tác phẩm đều thất bại về mặt kinh doanh. Trong vòng hai năm chỉ bán được 54 bản trong tổng số 600 quyển Romantische Lieder được phát hành, Eine Stunde hinter Mitternacht cũng được phát hành 600 quyển và được bán rất chậm.
Ðầu mùa thu 1899, Hermann Hesse làm việc cho một tiệm bán sách cũ có uy tín ở Basel, tại đây cả một thế giới tri thức nghệ thuật với nhiều cổ vũ phong phú đã mở cửa ra đón chào ông. Thành phố Basel đồng thời cũng mang lại cho một con người sống cô độc như Hermann Hesse về sống ẩn náu, ông đi du ngoạn, đi dạo để tự tìm tòi nghệ thuật và giúp ông dùng bút mực miêu tả những cảm xúc của mình. Năm 1900 Hermann Hesse được miễn phục vụ quân sự vì thị lực yếu. Bệnh tật này tồn tại mãi suốt cuộc đời cũng như bệnh đau đầu của ông. Năm 1901 Hermann Hesse đi du lịch nước Ý và chuyển về làm tại tiệm bán sách cũ Wattenwyl ở Basel, thời gian này ông có nhiều cơ hội để đăng các bài thơ và văn ngắn trên các tạp chí. Nhà xuất bản Samuel Fischer đã chú ý đến quyển tiểu thuyết Peter Camenzind và cho in thử năm 1903, phát hành năm 1904.
Năm 1957 Karlheinz Deschner viết trong bài văn tranh luận Kitsch, Konvention und Kunst: "Việc Hermann Hesse xuất bản quá nhiều các vần thơ hoàn toàn không có trình độ như vậy là một điều vô kỷ luật đáng tiếc, một sự man rợ về văn học". Trong các thập kỷ sau đó, giới phê bình văn chương Đức nối tiếp đánh giá nhữngtác phẩm của Hermann Hesse, một vài nhà xuất bản xếp vào loại văn chương của ông vào loại giả mạo. Việc chấp nhận Hermann Hesse xuống đến điểm thấp nhất ở Ðức vào thập niên 1960 trong khi giới thanh niên ở Mỹ phát ra một sự "bùng nổ Hesse" và lan tràn về lại Đức; đặc biệt quyển Der Steppenwolf trở thành quyển sách bán chạy nhất (bestseller) và Hesse trở thành tác giả người Đức được đọc và dịch nhiều nhất. Hơn 100 triệu quyển sách của ông đã được bán trên khắp thế giới. Để tưởng niệm Hermann Hesse lãnh hai giải thưởng văn chương, ông được đặt tên là: Giải thưởng Hermann Hesse và Giải thưởng văn học Hermann Hesse.
Giải thưởng Nobel dành cho Hermann Hesse không chỉ đơn thuần là sự khẳng định danh tiếng của ông mà nó còn tôn vinh thành quả văn thơ của ông thể hiện qua hình ảnh một con người tốt trong cuộc đấu tranh văn học của ông, đi theo tiếng gọi của sự trung thành, một người đã thành công trong trọng trách bảo vệ cho chủ nghĩa nhân đạo đích thực. Anders Österling, Thư ký của Viện Hàn lâm Thụy Điển đã tuyên dương Hermann Hasse như sau: "Giải Nobel Văn học năm 1946 được trao cho một nhà văn gốc Đức, người được giới phê bình ca ngợi rộng rãi và là người đã sáng tác bất chấp thị hiếu công chúng. Nhà văn Hermann Hesse 69 tuổi giờ có thể nhìn lại những thành tựu đáng kể của mình, bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ, một phần trong số đó đã được dịch sang tiếng Thụy Điển. Tập thơ Trost der Nacht (1929) (Niềm khuây khoả trong đêm) phản ánh một cách rõ nét phi thường không chỉ kịch tính nội tâm, sức khoẻ, những giờ khắc đau yếu và sự tự vấn quyết liệt của ông, mà cả sự hiến mình của ông cho cuộc sống, niềm vui trong hội hoạ và sự tôn sùng thiên nhiên. Tập thơ sau của ông Neue Gedichte (1937) (Những bài thơ mới), tràn đầy sự minh triết của một người ở tuổi xế bóng và những kinh nghiệm u sầu, nó cho thấy cảm xúc dâng trào trong hình ảnh, thể thức và giai điệu".
TÁC PHẨM
Năm 1899, Hermann Hesse phát hành tập thơ đầu tiên với những bài ca lãng mạn và viết nhiều bài phê bình, nhưng ít được chú ý. Năm 1904, tiểu thuyết lãng mạn giáo huấn Peter Camenzind mang đến thành công cho sự nghiệp văn chương đầu tiên cho ông, từ đó Hermann Hesse cống hiến hoàn toàn cuộc đời mình cho sự nghiệp sáng tác văn học, chủ yếu viết truyện ngắn loại tự thuật. Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết. Gertrud (1910), tiểu thuyết. Rosshalde (1914), tiểu thuyết. Knulp (1915), truyện vừa. Demian (1917), tiểu thuyết. Mùa hạ cuối cùng của Klingsors (Klingsors letzter Sommer, 1918), truyện vừa, (Klingsor's last summer). Siddhartha, Bản trường ca Ấn Ðộ (Siddhartha. Eine Indische Dichtung, 1920), tiểu thuyết. Thơ (Gedichte, 1922), tập thơ. Từ Ấn Ðộ (Aus Indien, 1923), thơ. Năm 1924, ông trở thành công dân Thụy Sĩ và xuất bản tiểu thuyết Sói đồng hoang (Der Steppenwolf,1927), một cuốn sách thuộc hàng best-seller. Narziss và Goldmund (Narziss und Goldmund, 1929), tiểu thuyết. Ðêm an ủi (Trost der Nacht, 1929), thơ. Hành trình về Phương Ðông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết (The journey to the East). Trò chơi với chuỗi hạt cườm (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết. Tiểu thuyết Trò chơi với chuỗi hạt cườm (xuất bản năm 1943) như một bản tổng hợp toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Hermann Hesse và nâng ông ông lên một tầm cao trong vấn đề sự dung hòa đời sống tinh thần và thế tục. Chiến tranh và hòa bình (Krieg und Frieden, 1946), (War and peace).
Trong thời kỳ đảng Quốc xã cầm quyền ở Đức, Hermann Hesse sống "lưu vong" ngay trên đất nước mình. Kể từ sau khi nhận giải Nobel, Hermann Hesse không viết thêm được tác phẩm nào ngoài các tiểu luận, thư từ. Gần 20 tác phẩm của Hermann Hesse đã được dịch sang tiếng Việt; có cuốn có đến hai ba bản dịch khác nhau; có cuốn được tái bản đến năm sáu lần, trong đó có hai tác phẩm nổi tiếng là Câu chuyện của dòng sông (nguyên tác: Siddhartha, tiểu thuyết), Phùng Khánh - Phùng Thăng dịch, NXB An Tiêm, 1967; NXB Lá Bối, 1965-1966; NXB Hội Nhà Văn, 1988-1996-1998-2001. Tuổi trẻ băn khoăn (nguyên tác: Demian, tiểu thuyết), Hoài Khanh dịch, NXB Ca Dao, 1968-1971-1974; NXB Hội Nhà Văn, 1998. (Tài liệu: Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây).
Tổng hợp sách đã xuất bản: (đang cập nhật thêm)
- Tuổi trẻ băn khoăn - Ca Dao xuất bản năm 1968. Hoài Khanh dịch
- Câu Chuyện Dòng Sông - An Tiêm in lần thứ 6 - 1974. Bản dịch của Phùng Khánh, Phùng Thăng
- Đôi bạn chân tình - NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2001. Vũ Đình Lưu dịch
- Hành trình sang Đông Phương (Die Morgenlandfahrt) - NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2001. Hoài Khanh dịch
- Mối tình của chàng nhạc sĩ - NXB Văn Hóa Sài Gòn xuất bản năm 2007. Vũ Đằng dịch
- Đâu mái nhà xưa - NXB Văn Hóa Sài Gòn xuất bản năm 2008. Hoài Khanh dịch
- Sói thảo nguyên (Der Steppenwolf, 1927) - Nhã Nam và NXB Văn Học phát hành năm 2013. Lê Chu Cầu dịch
- Nhà khổ hạnh và gã lang thang - Nxb Hồng Đức 2016
Chỉnh sửa lần cuối bởi moderator: