BTBookstore
Thành viên sáng lập
James Hadley Chase
(1906 - 1985)
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall.
Ông được sinh ra ở Luân Đôn, trong một gia đình người Pháp di cư, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai.
Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong Không quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase đã biên tập Tạp chí Không quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream.
Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống một cuộc sống ẩn dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm.
Tiểu thuyết đầu tay của ông “Sẽ không có những bông orchidées cho Miss Blendish”, tức cuốn “Vành khăn cho em” (1939) đã đem lại vinh quang và tiếng tăm cho ông. Từ đó, ông bắt đầu chuyển hẳn sang nghề viết văn, cứ mỗi năm ông cho ra hai cuốn sách. Ông viết tất cả bảy mươi tám cuốn thuộc loại tiểu thuyết trinh thám. Ông đã thử viết thể loại “văn học nghiêm túc” và cũng đã thành công. Nhưng dầu sao, tài năng của ông vẫn được thể hiện rực rỡ trong thể loại trinh thám sở trường. Ông nổi tiếng tới mức ở Anh, mọi người biết ông như biết nữ hoàng, còn ở Mỹ như biết tổng thống. Diễn biến câu chuyện trong phần lớn các tác phẩm của ông đều xảy ra ở Mỹ mặc dù ông mới chỉ tới Florida và New Orlean (Mỹ) có một lần. Các tư liệu cho tác phẩm ông dựa theo các sách hướng dẫn du lịch, những tấm bản đồ chi tiết và từ điển dân dã. Các tình tiết, nhân vật, sự kiện trong tác phẩm của ông rất sống động, đầy kịch tính, khác với thể loại trinh thám cùng thời. Nhiều nhà phê bình văn học đã gọi sách của ông là “Loại sách đọc trong một hơi thở” - có nghĩa là nếu đã bắt đầu cầm tới cuốn sách của ông thì phải đọc tới trang cuối, không một phút nghỉ ngơi. Điều đó chứng tỏ rằng sách của ông có tính chất lôi cuốn hấp dẫn như thế nào. Cách viết văn của ông là làm thế nào để độc giả phải tin rằng, thậm chí có những việc phi thực tế rõ ràng mà vẫn có thể xảy ra trong cuộc đời thực. Đó chính là sự điêu luyện trong bút pháp của ông. Một nét đặc biệt nữa trong các tác phẩm của ông là rất nhiều đầu rơi, máu chảy, những vụ giết người, đuổi bắt ly kỳ, nhưng khác với những loại trinh thám rẻ tiền khác, những sự kiện, tình tiết đó được nhà văn miêu tả rất hợp tình hợp lý và đạt tới trình độ nghệ thuật cao. Trong cuộc đời viết văn của mình, ông đã chọn Thụy Sĩ làm nơi tạo nguồn cảm hứng cho những áng văn làm rung động trái tim bao người đọc. Chẳng thế mà có một nhà báo Tây Âu đã từng viết rằng Chase là một người Anh, gốc Pháp, sống ở Thụy Sĩ, viết văn theo kiểu Mỹ và xuất bản sách ở Pháp.
Ông là điển hình của một tấm gương sáng chói về sự lao động chân thực, không biết mệt mỏi để phục vụ những độc giả luôn trung thành với ông trên khắp hoàn cầu. Số lượng và giá trị các tác phẩm của ông đã chứng minh hùng hồn cho điều đó.
Ông được sinh ra ở Luân Đôn, trong một gia đình người Pháp di cư, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai.
Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong Không quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase đã biên tập Tạp chí Không quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream.
Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống một cuộc sống ẩn dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm.
Tiểu thuyết đầu tay của ông “Sẽ không có những bông orchidées cho Miss Blendish”, tức cuốn “Vành khăn cho em” (1939) đã đem lại vinh quang và tiếng tăm cho ông. Từ đó, ông bắt đầu chuyển hẳn sang nghề viết văn, cứ mỗi năm ông cho ra hai cuốn sách. Ông viết tất cả bảy mươi tám cuốn thuộc loại tiểu thuyết trinh thám. Ông đã thử viết thể loại “văn học nghiêm túc” và cũng đã thành công. Nhưng dầu sao, tài năng của ông vẫn được thể hiện rực rỡ trong thể loại trinh thám sở trường. Ông nổi tiếng tới mức ở Anh, mọi người biết ông như biết nữ hoàng, còn ở Mỹ như biết tổng thống. Diễn biến câu chuyện trong phần lớn các tác phẩm của ông đều xảy ra ở Mỹ mặc dù ông mới chỉ tới Florida và New Orlean (Mỹ) có một lần. Các tư liệu cho tác phẩm ông dựa theo các sách hướng dẫn du lịch, những tấm bản đồ chi tiết và từ điển dân dã. Các tình tiết, nhân vật, sự kiện trong tác phẩm của ông rất sống động, đầy kịch tính, khác với thể loại trinh thám cùng thời. Nhiều nhà phê bình văn học đã gọi sách của ông là “Loại sách đọc trong một hơi thở” - có nghĩa là nếu đã bắt đầu cầm tới cuốn sách của ông thì phải đọc tới trang cuối, không một phút nghỉ ngơi. Điều đó chứng tỏ rằng sách của ông có tính chất lôi cuốn hấp dẫn như thế nào. Cách viết văn của ông là làm thế nào để độc giả phải tin rằng, thậm chí có những việc phi thực tế rõ ràng mà vẫn có thể xảy ra trong cuộc đời thực. Đó chính là sự điêu luyện trong bút pháp của ông. Một nét đặc biệt nữa trong các tác phẩm của ông là rất nhiều đầu rơi, máu chảy, những vụ giết người, đuổi bắt ly kỳ, nhưng khác với những loại trinh thám rẻ tiền khác, những sự kiện, tình tiết đó được nhà văn miêu tả rất hợp tình hợp lý và đạt tới trình độ nghệ thuật cao. Trong cuộc đời viết văn của mình, ông đã chọn Thụy Sĩ làm nơi tạo nguồn cảm hứng cho những áng văn làm rung động trái tim bao người đọc. Chẳng thế mà có một nhà báo Tây Âu đã từng viết rằng Chase là một người Anh, gốc Pháp, sống ở Thụy Sĩ, viết văn theo kiểu Mỹ và xuất bản sách ở Pháp.
Ông là điển hình của một tấm gương sáng chói về sự lao động chân thực, không biết mệt mỏi để phục vụ những độc giả luôn trung thành với ông trên khắp hoàn cầu. Số lượng và giá trị các tác phẩm của ông đã chứng minh hùng hồn cho điều đó.
Tổng cộng Chase viết 89 tiểu thuyết. Bác Huytop và Jackal (sachxua.net) đã xác định được 62 quyển đã được xuất bản ở Việt Nam, thống kê lại như sau:
1. 1939: No Orchild for Miss Blandish (The Villain and the Virgin) - Vành khăn cho em
2. 1939: He won’t need it now - Chỉ là ảo vọng
3. 1939: The dead stay dumb (Kiss my fist) - Trốn chạy
4. 1940: Twelve chink and a woman (The doll’s bad news) - Vòng tay ác quỉ/Mười hai người Hoa và một cô gái
5. 1940: Lady, here your wreath (Farewell the Sea-gun) - Vĩnh biệt hải âu/Cô gái giấu mặt
6. 1941: Miss Callaghan comes to grief - Buôn gái da trắng/Tập đoàn buôn gái
7. 1944: Just the way it is - Chợt tỉnh cơn mê
8. 1945: Eve - Đam mê và thù hận
9. 1946: More deadly than the male - Kẻ thủ ác hoang tưởng
10. 1946: I’ll get you for this - Hứng trọn 12 viên
11. 1946: Make the Corpse walk - Dựng xác chết dậy nhảy múa
12. 1946: Blonde’s requiem - Kinh cầu hồn cho ai
13. 1948: The flesh of the Orchid - Đóa lan rừng nổi loạn/Mối tình cô gái mộng du
14. 1948: Trusted like a fox (Ruthless) - Kẻ bị truy nã
15. 1949: You never know with women - Chẳng bao giờ hiểu được đàn bà/Người đàn bà mộng du
16. 1949: You’re lonely when you’re dead - Người đàn bà mất tích/Cái chết của một thiếu phụ
17. 1949: The paw in the bottle - Thà anh sống cô đơn
18. 1950: Lay her among the lilies (Too dangerour to be free) - Hãy đặt nàng lên tấm thảm hoa
19. 1950: Figure it for yourself (The marijuana mob) - Tệ đến thế là cùng
20. 1951: Strictly for cash - Cạm bẫy dành cho Johnny/Cạm bẫy
21. 1951: But a short time to live (The pick up) - Vòng tay thần chết/Tình yêu ngang trái
22. 1951: In a vain shadow - Tình nhân gã vệ sĩ
23. 1952: The wary transgressor - Kẻ đào thoát/Choáng ngợp
24. 1952: Double shuffle - Cô gái múa rắn
25. 1953: I’ll bury my dead - Dấu vết kẻ sát nhân
26. 1953: This way for a shroud - Cái chết đến từ trên trời
27. 1954: The sucker punch - Vì anh quá đam mê
28. 1954: Tiger by the tail (Night out) - Trả giá cho một đêm vui
29. 1954: Safer dead (Dead ringer) - Những xác chết câm lặng
30. 1954: Mission to Venice - Sứ mệnh ở Venice
31. 1955: You’ve got it coming - Dã tràng xe cát
32. 1956: There’s always a price tag - Kẻ thừa kế bí ẩn
33. 1956: You find him, I’ll fix him - Người tình nguy hiểm/Hãy tin tôi
34. 1957: The guilty are afraid - Những chiếc que diêm bí ẩn/Kẻ phạm tội run sợ/Món quà bí mật
35. 1958: Not safe to be free (The case of a strangled starlet) - Thằng khùng/Kẻ bị quỉ ám
36. 1958: Hit and run - Vụ tống tiền bí hiểm/Vụ án thành phố Cây cọ/Hồ sơ vụ tai nạn giao thông
37. 1959: Shock treatment - Móng vuốt tử thần/Cú sốc/Người đẹp Gilda
38. 1959: The world in my pocket - Cả thế gian trong túi
39. 1961: A lotus for miss Quon - Thiên đường của Vũ nữ Châu/Một bông sen dành cho gái nhảy Sài Gòn
40. 1961: Just another sucker - - Sa bẫy của nàng/Lại thêm một cú đấm
41. 1962: I would rather stay poor - Tiền không phải là tất cả
42. 1962: A coffin from Hong Kong - Quan tài từ Hồng Kong
43. 1963: One bright summer Morning - Tiền mất tật mang
44. 1963: Tell it to the birds - Đừng dối trá nữa
45. 1964: The soft centre - Bản đồng ca chết người/Cơn ác mộng
46. 1965: The way the cookie crumbles - Hạnh phúc không dành cho em
47. 1967: Hace this one on me - Chạy trốn
48. 1967: Well now, my pretty - Cướp sòng bạc/Này cô em
49. 1969: The whiff of Money - Mùi vàng
50. 1969: The vulture is a patient bird - Chim kền kền đang rình mồi/Chiếc nhẫn giết người/Tên giết người
51. 1970: There’s a hippie on the highway - Gã Hippi trên đường
52.1971: Want to stay alive? - Muốn sống thì hãy
53. 1971: An ace up my sleeve - Em không thể sống cô đơn
54. 1972: You’re dead without money - Thưa bà đây vòng hoa tang
55. 1973: Knock, knock! Who there? - Trong bàn tay Maphia
56. 1974: So what happens to me? - Trở về từ cõi chết
57. 1974: Goldfish Have No Hiding Place - Không nơi ẩn nấp
58. 1975: Believe this. You’ll believe anything - Ôi đàn bà/Người đàn bà tham vọng
59. 1975: The joker in the pack - Chủ bài trong tay
60. 1980: You can say that again - Kẻ đội lốt/Âm mưu hoàn hảo
61. 1981: Hand me a fig-leaf - Vụ giết người bí ẩn
62. 1983: Not my thing - Phu nhân tỉ phú James
Còn lại 27 tiểu thuyết sau chưa in hoặc chưa xác định. Bên cạnh là tên nhân vật chính và nhân vật phụ quan trọng ở đầu truyện để tiện đối chiếu:
- 1944: Miss shumway waves a wand / Ross Millan & Myra Shumway
- 1947: No business of mine / Steve Harmas & Netta Scott
- 1950: Mallory / Martin Corridon & Brian Mallory
- 1952 The Fast Buck / Verne Baird & Rico
- 1951: Why pick on me? / Martin Corridon
- 1953: The things men do / Harry Collins
- 1955: Mission to Siena / Don Micklem
- 1960: Come easy, go easy / Chet Carson
- 1960 What's Better Than Money Jefferson Halliday
- 1965: This for real / Mark Girland
- 1966: You have yourself a deal / Mark Girland
- 1966: Cade / Val Cade
- 1968: An ear to the ground / Steve Harmas, Al Barney
- 1968: Believed Violent / Frank Terrell, Jay Delaney
- 1970: Like a hole in the head / Jay Benson
- 1972 Just a Matter of Time / Chris Patterson, Sheila Oldhill, Miss Morely-Johnson
- 1973: Have a change of scene / Larry Carr
- 1976: Do me a favour-Drop dead / Keith Devery
- 1976: My laugh comes last / Larry Lucas
- 1977: I hold the four aces / Helga Rolfe
- 1978: Consider yourself dead / Mike Frost
- 1979: A can of worms / Bart Anderson
- 1979: You must be kidding / Ken Brandon & Tom Lepski
- 1980: Try this one for size / Ed Haddon; Claude Kendrick; Paradise City Police Force
- 1982: Have a nice night / Ed Haddon & Lu Brady
- 1982: We’ll share a double funeral / Perry Weston & Chet Logan
- 1984: Hit them where it hurts / Dirk Wallace