Bá Tân sách chấm com
Thành viên mới
Kim Dung (10/3/1924 – 30/10/2018) là một trong những nhà văn có tầm ảnh hưởng nhất đến văn học Trung Quốc hiện đại. Ông còn là người đồng sáng lập của nhật báo Hồng Kông Minh Báo, ra đời năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này.
Kim Dung được coi là là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại, người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất với 300 triệu bản in (chưa tính một lượng rất lớn những bản lậu), được dịch ra nhiều thứ tiếng, được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tửKim Dung tên thật là Tra Lương Dung Cha Liang Yung), sinh tại huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang trong một gia tộc khoa bảng nhưng về sau sa sút; từ nhỏ đã say mê văn chương, đọc sách. Năm 16 tuổi, vì viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice (1940) có ý châm biếm chủ nhiệm Ban huấn đạo nên ông bị hiệu trưởng đuổi học, phải chuyển sang trường khác. Tốt nghiệp phổ thông, ông theo học luật quốc tế nhưng bỏ dở, xin vào làm tại thư viện trung ương; ở đây, nhờ có điều kiện đọc sách, kiến thức của ông được nâng cao rất nhiều; đặc biệt, những tiểu thuyết võ hiệp đã ảnh hưởng đến tư duy của ông, khiến ông nung nấu dự định sáng tác truyện thể loại này.
Năm 1946 – 1952: Hoạt động báo chí
Tra Lương Dung tham gia các hoạt động báo chí từ rất sớm. Khi làm ở thư viện trung ương, ông sáng lập tờ Thái Bình Dương tạp chi (nhưng ra được mỗi một số). Năm 1946, ông về Hàng Châu làm phóng viên tờ Đông Nam nhật báo và tỏ ra là một nhà báo có tài. Năm sau, ông chuyển sang tạp chí Thời dữ triều, rồi xin làm phiên dịch cho tờ Đại công báo . Khi khi tờ báo này ra trong Cải cách ruộng đất, gia đình ông bị qui là thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, ông mất liên lạc với gia đình và từ đó định cư tại Hồng Kông. Năm 1952, ông chuyển sang làm cho tờ Tân văn báo, nơi ông có điều kiện phát huy khả năng viết văn của mình. Năm 1957, ông sáng tác một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân , Tam luyến, Tiểu Cáp Tử cô hương, Ngọ dạ cầm thanh ... dưới bút danh Lâm Hoan, thu được thành công đáng kể.
Từ 1955: Bắt đầu viết tiểu thuyết võ hiệp
Khi làm ở Tân văn báo, Tra Lương Dung kết giao với hai người bạn là La Phù và Lương Vũ Sinh (1). Được sự giúp đỡ của họ, năm 1955 ông viết truyện võ hiệp đầu tay Thư kiếm ân cừu lục , đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân bảo, kể về cuộc đấu tranh của Hồng Hoa hội, một tổ chức phản Thanh phục Minh, ca ngợi tình yêu trong sáng giữa Tổng đà chủ Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa. Bút danh Kim Dung (hai chữ Kim * Dung lên là chiết tự từ tên thật Dung của ông, nghĩa là “Cái chuông lớn”) lần đầu xuất hiện và được dư luận chú ý. Năm 1956, ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm (môi) được hoan nghênh nhiệt liệt; năm 1957, các tác phẩm Tuyết Sơn Phi Hồ và Anh hùng xạ điêu truyện được xuất bản khiến tiếng tăm của ông bắt đầu nổi lên.
Năm 1959: Hồng Kông Minh báo
Năm 1959, Kim Dung cùng với bạn học cũ thời trung học Trầm Bảo Tân sáng lập tờ Hồng Kông Minh báo (E) và làm tổng biên tập đầu tiên. Ông vừa viết xã luận, vừa viết tiểu thuyết đăng nhiều kì cho tờ báo, bắt đầu bằng bộ võ hiệp thứ năm của mình Thần Điêu Hiệp lữ (** * *E). Càng ngày, Minh báo càng thu hút độc giả, trở thành một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất ở Hồng Kông, và Kim Dung đã đeo đuổi, phát triển nó cho đến khi ông nghỉ hưu: năm 1965 ông cho ra tờ Minh bảo Nguyệt san dành cho giới trí thức; năm 1967 xuất bản tờ Tân Minh Nhật bảo ở Malaisia và Singapore và tuần báo Minh bảo Chu san; năm 1993 ông mới thôi chức vụ chủ bút, bán hết cổ phần của mình trong Minh bảo.
Năm 1957 – 1961: Xạ điêu tam bộ khúc
Năm 1961, Kim Dung liên tiếp xuất bản Bạch mã khiếu Tây phong), Uyên Ương, đao, và Ỷ Thiên Đồ long ký - bộ tiểu thuyết cùng với Xạ điêu anh hùng truyện và Thần Điêu Hiệp lữ đã xuất bản trước đó tạo thành bộ ba tiểu thuyết Xạ điêu tam bộ khúc . Đây là chùm truyện liên hoàn nổi tiếng nhất và có nhiều chi tiết liên kết chặt chẽ nhất của ông, bao gồm khoảng thời gian hơn một thế kỷ, trải qua các triều đại Kim, Tống, Nguyên, Minh. Những sự kiện và nhân vật chính trong bộ truyện có mối liên hệ với nhau qua nhiều đời, đóng vai trò quan trọng trong sự suy tàn và hưng vong của các triều đại. Anh hùng xạ điêu có hai nhân vật chính là Quách Tĩnh và Hoàng Dung; thông qua quá trình trưởng thành của họ, tác giả kể về sự hình thành đế quốc Mông Cổ, quá trình suy yếu của nhà Tống và sự sụp đổ của nhà Kim. Thần điêu Hiệp lữ kể về mối tình trắc trở giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ diễn ra trong bối cảnh khoảng 10 năm sau, khi đế quốc Mông Cổ đã trở nên lớn mạnh, bắt đầu xâm lược nhà Tống. Sự kiện trong Ỷ thiên Đồ long ký, với hai nhân vật chính là Trương Vô Kị và Triệu Mẫn quận chúa, diễn ra khoảng 100 năm sau, khi quân Mông Cổ đã tiêu diệt nhà Tống, thành lập nhà Nguyên, thống trị Trung Quốc và những cuộc khởi nghĩa nổi lên liên miên dẫn đến sự ra đời của nhà Minh. Năm 2009, bộ ba Xạ điêu tam bộ khúc đã được chuyển thành trò chơi điện tử trực tuyến.
Năm 1963 - 1967: Thiên Long bát bộ
Năm 1963, Kim Dung bắt đầu viết Thiên Long bát bộ, một trong những bộ truyện nổi tiếng nhất của ông. Đây là tác phẩm dài nhất (gần hai triệu chữ), được viết trong thời gian lâu nhất (bốn năm), được tác giả chỉnh sửa 100 lần (lần gần nhất vào năm 2009). Hành động của bộ sách diễn ra vào thời Bắc Tống, nhắc đến các cuộc chiến tranh giữa nhà Tống, Đại Lí, Đại Liêu, Thổ Phồn và Tây Hạ. Với cốt truyện phức tạp xoay quanh các mối quan hệ giữa những nhân vật chính Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc... đến từ nhiều nước khác nhau, thuộc các môn phái, chính tà khác nhau, nhà văn đưa ra quan niệm của mình về mối quan hệ nhân - quả giữa các hành động của nhân vật, giữa các nhân vật với gia đình, dân tộc, đất nước. Vốn ngưỡng mộ Phật giáo, Kim Dung đã đưa tinh thần giáo lí nhà Phật thấm đượm và xuyên suốt trong tác phẩm của mình. Năm 1967: Tiếu ngạo giang hồ Năm 1965, Kim Dung du hành dài ngày ở châu Âu và bắt đầu viết Tiếu ngạo giang hồ (XB bản năm 1967), một tác phẩm chứng tỏ tài hoa đáng kinh ngạc của nhà văn, với Lệnh Hồ Xung có lẽ là nhân vật được yêu thích nhất trong các nhân vật chính của ông. Bên cạnh những trang miêu tả cuộc tranh giành khốc liệt chức minh chủ Ngũ nhạc kiếm phái với bao âm mưu, dối trá, phản bội, là những trang viết lãng mạn, mê say về cuộc tình giữa Lệnh Hồ Xung - một kiếm khách lãng tử, nghĩa hiệp với Doanh Doanh - một nữ ma giáo tài sắc song toàn; đôi tỉnh nhân đã cùng nhau tấu lên khúc Tiếu ngạo giang hồ xuyên suốt tác phẩm. Ngoài ra, thông qua những đoạn ngoại đề, những hình ảnh trầm mặc, suy niệm về những ngôi chùa, đạo quán, rừng tùng bách, tác giả còn đưa người đọc về với suối nguồn tư tưởng Phương Đông. Tiểu ngạo giang hồ được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của Kim Dung.
Năm 1972: Ngừng sáng tác
Năm 1970, Kim Dung công bố truyện ngắn kiếm hiệp Việt nữ kiếm lấy bối cảnh thời Xuân Thu, khi Việt vương Câu Tiễn bị Ngô vương Phù Sai đánh bại và ôm chí báo thù. Năm 1972, ông hoàn thành bộ Lộc Đỉnh kí , với nhân vật chính là Vi Tiểu Bảo, một thiếu niên thất học, gian manh và lười nhác nhưng nhờ sự may mắn tuyệt vời và những thủ đoạn thông minh đã trở thành bạn thân của Hoàng đế Khang Hi, tham gia vào nhóm lãnh đạo tổ chức chống đối triều đình Thiên Địa hội. Cuối cùng, bị kẹt giữa hai thế lực, Tiểu Bảo quyết định đưa bảy cô vợ xinh đẹp và ba đứa con bí mật về Giang Nam sống đời ngao du sơn thủy. Chủ nghĩa thực dụng, những ý tưởng thực tế và nhiều chủ đề độc đáo khiến nhiều người coi Lộc Đỉnh ký là tác phẩm hay nhất của Kim Dung; và Vi Tiểu Bảo thường được so sánh với A Q của Lỗ Tấn vì phản ánh tính cách chung của người Trung Quốc. Cùng năm này, nhà văn tuyên bố ngừng sáng tác, dành thời gian để chỉnh sửa tác phẩm của mình: Năm 1979, tất cả những gì ông viết trong 20 năm được xuất bản thành một bộ 36 cuốn có nhan đề chung là Kim Dung võ hiệp tiểu thuyết toàn tập. Từ năm 1980, ông tham gia Ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông và Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao Hồng Kông về Trung Quốc. Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.
Chủ đề và nghệ thuật trong sáng tác của Kim Dung Có thể nói, đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung là chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc. Ông mô tả và ca ngợi cuộc đấu tranh giành độc lập, tự chủ trước hết là của người Hán trong bối cảnh đất nước bị đe dọa bởi các bộ tộc phương Bắc (Khiết Đan, Nữ Chân, Mông cơ…) Mông Cơ...); đồng thời chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc ngày nay. Nhà văn đánh giá cao các giá trị truyền thống Trung Hoa, các quan niệm Nho quan hệ vua tôi, cha con, anh em, sư phụ và đồ đệ, bằng hữu, danh dự, thể diện... Người đọc có thể tìm thấy trong tác phẩm giáo về của ông những pho từ điển độc đáo về phong tục, tập quán, văn hóa Trung Hoa, từ y thuật, võ thuật, văn học, âm nhạc, thư pháp, cờ vây, trà đạo đến các sự kiện lịch sử, các triết thuyết đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão... Truyện kiếm hiệp của Kim Dung, ngoài cốt truyện li kì hấp dẫn còn có tính văn học cao, ngôn ngữ trong sáng, hành văn lưu loát, sử dụng thơ, từ, ca, đối ngẫu, câu đối... đắc địa. Theo nghiên cứu của đại học Bắc Kinh, ông là nhân vật thứ tư trong số những tác giả lỗi lạc nhất của Trung Hoa thế kỉ XX. Tháng 2/2006, ông được độc giả bầu là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc. Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2). Ở Việt Nam, các tác phẩm của Kim Dung đã được dịch hầu hết (có bộ có nhiều bản dịch khác nhau) và được bạn đọc say mê
Chú thích:Năm 1946 – 1952: Hoạt động báo chí
Tra Lương Dung tham gia các hoạt động báo chí từ rất sớm. Khi làm ở thư viện trung ương, ông sáng lập tờ Thái Bình Dương tạp chi (nhưng ra được mỗi một số). Năm 1946, ông về Hàng Châu làm phóng viên tờ Đông Nam nhật báo và tỏ ra là một nhà báo có tài. Năm sau, ông chuyển sang tạp chí Thời dữ triều, rồi xin làm phiên dịch cho tờ Đại công báo . Khi khi tờ báo này ra trong Cải cách ruộng đất, gia đình ông bị qui là thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, ông mất liên lạc với gia đình và từ đó định cư tại Hồng Kông. Năm 1952, ông chuyển sang làm cho tờ Tân văn báo, nơi ông có điều kiện phát huy khả năng viết văn của mình. Năm 1957, ông sáng tác một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân , Tam luyến, Tiểu Cáp Tử cô hương, Ngọ dạ cầm thanh ... dưới bút danh Lâm Hoan, thu được thành công đáng kể.
Từ 1955: Bắt đầu viết tiểu thuyết võ hiệp
Khi làm ở Tân văn báo, Tra Lương Dung kết giao với hai người bạn là La Phù và Lương Vũ Sinh (1). Được sự giúp đỡ của họ, năm 1955 ông viết truyện võ hiệp đầu tay Thư kiếm ân cừu lục , đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân bảo, kể về cuộc đấu tranh của Hồng Hoa hội, một tổ chức phản Thanh phục Minh, ca ngợi tình yêu trong sáng giữa Tổng đà chủ Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa. Bút danh Kim Dung (hai chữ Kim * Dung lên là chiết tự từ tên thật Dung của ông, nghĩa là “Cái chuông lớn”) lần đầu xuất hiện và được dư luận chú ý. Năm 1956, ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm (môi) được hoan nghênh nhiệt liệt; năm 1957, các tác phẩm Tuyết Sơn Phi Hồ và Anh hùng xạ điêu truyện được xuất bản khiến tiếng tăm của ông bắt đầu nổi lên.
Năm 1959: Hồng Kông Minh báo
Năm 1959, Kim Dung cùng với bạn học cũ thời trung học Trầm Bảo Tân sáng lập tờ Hồng Kông Minh báo (E) và làm tổng biên tập đầu tiên. Ông vừa viết xã luận, vừa viết tiểu thuyết đăng nhiều kì cho tờ báo, bắt đầu bằng bộ võ hiệp thứ năm của mình Thần Điêu Hiệp lữ (** * *E). Càng ngày, Minh báo càng thu hút độc giả, trở thành một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất ở Hồng Kông, và Kim Dung đã đeo đuổi, phát triển nó cho đến khi ông nghỉ hưu: năm 1965 ông cho ra tờ Minh bảo Nguyệt san dành cho giới trí thức; năm 1967 xuất bản tờ Tân Minh Nhật bảo ở Malaisia và Singapore và tuần báo Minh bảo Chu san; năm 1993 ông mới thôi chức vụ chủ bút, bán hết cổ phần của mình trong Minh bảo.
Năm 1957 – 1961: Xạ điêu tam bộ khúc
Năm 1961, Kim Dung liên tiếp xuất bản Bạch mã khiếu Tây phong), Uyên Ương, đao, và Ỷ Thiên Đồ long ký - bộ tiểu thuyết cùng với Xạ điêu anh hùng truyện và Thần Điêu Hiệp lữ đã xuất bản trước đó tạo thành bộ ba tiểu thuyết Xạ điêu tam bộ khúc . Đây là chùm truyện liên hoàn nổi tiếng nhất và có nhiều chi tiết liên kết chặt chẽ nhất của ông, bao gồm khoảng thời gian hơn một thế kỷ, trải qua các triều đại Kim, Tống, Nguyên, Minh. Những sự kiện và nhân vật chính trong bộ truyện có mối liên hệ với nhau qua nhiều đời, đóng vai trò quan trọng trong sự suy tàn và hưng vong của các triều đại. Anh hùng xạ điêu có hai nhân vật chính là Quách Tĩnh và Hoàng Dung; thông qua quá trình trưởng thành của họ, tác giả kể về sự hình thành đế quốc Mông Cổ, quá trình suy yếu của nhà Tống và sự sụp đổ của nhà Kim. Thần điêu Hiệp lữ kể về mối tình trắc trở giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ diễn ra trong bối cảnh khoảng 10 năm sau, khi đế quốc Mông Cổ đã trở nên lớn mạnh, bắt đầu xâm lược nhà Tống. Sự kiện trong Ỷ thiên Đồ long ký, với hai nhân vật chính là Trương Vô Kị và Triệu Mẫn quận chúa, diễn ra khoảng 100 năm sau, khi quân Mông Cổ đã tiêu diệt nhà Tống, thành lập nhà Nguyên, thống trị Trung Quốc và những cuộc khởi nghĩa nổi lên liên miên dẫn đến sự ra đời của nhà Minh. Năm 2009, bộ ba Xạ điêu tam bộ khúc đã được chuyển thành trò chơi điện tử trực tuyến.
Năm 1963 - 1967: Thiên Long bát bộ
Năm 1963, Kim Dung bắt đầu viết Thiên Long bát bộ, một trong những bộ truyện nổi tiếng nhất của ông. Đây là tác phẩm dài nhất (gần hai triệu chữ), được viết trong thời gian lâu nhất (bốn năm), được tác giả chỉnh sửa 100 lần (lần gần nhất vào năm 2009). Hành động của bộ sách diễn ra vào thời Bắc Tống, nhắc đến các cuộc chiến tranh giữa nhà Tống, Đại Lí, Đại Liêu, Thổ Phồn và Tây Hạ. Với cốt truyện phức tạp xoay quanh các mối quan hệ giữa những nhân vật chính Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc... đến từ nhiều nước khác nhau, thuộc các môn phái, chính tà khác nhau, nhà văn đưa ra quan niệm của mình về mối quan hệ nhân - quả giữa các hành động của nhân vật, giữa các nhân vật với gia đình, dân tộc, đất nước. Vốn ngưỡng mộ Phật giáo, Kim Dung đã đưa tinh thần giáo lí nhà Phật thấm đượm và xuyên suốt trong tác phẩm của mình. Năm 1967: Tiếu ngạo giang hồ Năm 1965, Kim Dung du hành dài ngày ở châu Âu và bắt đầu viết Tiếu ngạo giang hồ (XB bản năm 1967), một tác phẩm chứng tỏ tài hoa đáng kinh ngạc của nhà văn, với Lệnh Hồ Xung có lẽ là nhân vật được yêu thích nhất trong các nhân vật chính của ông. Bên cạnh những trang miêu tả cuộc tranh giành khốc liệt chức minh chủ Ngũ nhạc kiếm phái với bao âm mưu, dối trá, phản bội, là những trang viết lãng mạn, mê say về cuộc tình giữa Lệnh Hồ Xung - một kiếm khách lãng tử, nghĩa hiệp với Doanh Doanh - một nữ ma giáo tài sắc song toàn; đôi tỉnh nhân đã cùng nhau tấu lên khúc Tiếu ngạo giang hồ xuyên suốt tác phẩm. Ngoài ra, thông qua những đoạn ngoại đề, những hình ảnh trầm mặc, suy niệm về những ngôi chùa, đạo quán, rừng tùng bách, tác giả còn đưa người đọc về với suối nguồn tư tưởng Phương Đông. Tiểu ngạo giang hồ được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của Kim Dung.
Năm 1972: Ngừng sáng tác
Năm 1970, Kim Dung công bố truyện ngắn kiếm hiệp Việt nữ kiếm lấy bối cảnh thời Xuân Thu, khi Việt vương Câu Tiễn bị Ngô vương Phù Sai đánh bại và ôm chí báo thù. Năm 1972, ông hoàn thành bộ Lộc Đỉnh kí , với nhân vật chính là Vi Tiểu Bảo, một thiếu niên thất học, gian manh và lười nhác nhưng nhờ sự may mắn tuyệt vời và những thủ đoạn thông minh đã trở thành bạn thân của Hoàng đế Khang Hi, tham gia vào nhóm lãnh đạo tổ chức chống đối triều đình Thiên Địa hội. Cuối cùng, bị kẹt giữa hai thế lực, Tiểu Bảo quyết định đưa bảy cô vợ xinh đẹp và ba đứa con bí mật về Giang Nam sống đời ngao du sơn thủy. Chủ nghĩa thực dụng, những ý tưởng thực tế và nhiều chủ đề độc đáo khiến nhiều người coi Lộc Đỉnh ký là tác phẩm hay nhất của Kim Dung; và Vi Tiểu Bảo thường được so sánh với A Q của Lỗ Tấn vì phản ánh tính cách chung của người Trung Quốc. Cùng năm này, nhà văn tuyên bố ngừng sáng tác, dành thời gian để chỉnh sửa tác phẩm của mình: Năm 1979, tất cả những gì ông viết trong 20 năm được xuất bản thành một bộ 36 cuốn có nhan đề chung là Kim Dung võ hiệp tiểu thuyết toàn tập. Từ năm 1980, ông tham gia Ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông và Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao Hồng Kông về Trung Quốc. Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.
Chủ đề và nghệ thuật trong sáng tác của Kim Dung Có thể nói, đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung là chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc. Ông mô tả và ca ngợi cuộc đấu tranh giành độc lập, tự chủ trước hết là của người Hán trong bối cảnh đất nước bị đe dọa bởi các bộ tộc phương Bắc (Khiết Đan, Nữ Chân, Mông cơ…) Mông Cơ...); đồng thời chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc ngày nay. Nhà văn đánh giá cao các giá trị truyền thống Trung Hoa, các quan niệm Nho quan hệ vua tôi, cha con, anh em, sư phụ và đồ đệ, bằng hữu, danh dự, thể diện... Người đọc có thể tìm thấy trong tác phẩm giáo về của ông những pho từ điển độc đáo về phong tục, tập quán, văn hóa Trung Hoa, từ y thuật, võ thuật, văn học, âm nhạc, thư pháp, cờ vây, trà đạo đến các sự kiện lịch sử, các triết thuyết đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão... Truyện kiếm hiệp của Kim Dung, ngoài cốt truyện li kì hấp dẫn còn có tính văn học cao, ngôn ngữ trong sáng, hành văn lưu loát, sử dụng thơ, từ, ca, đối ngẫu, câu đối... đắc địa. Theo nghiên cứu của đại học Bắc Kinh, ông là nhân vật thứ tư trong số những tác giả lỗi lạc nhất của Trung Hoa thế kỉ XX. Tháng 2/2006, ông được độc giả bầu là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc. Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2). Ở Việt Nam, các tác phẩm của Kim Dung đã được dịch hầu hết (có bộ có nhiều bản dịch khác nhau) và được bạn đọc say mê
* Bài viết và thông tin trích từ cuốn: 108 nhà văn thế kỷ XX-XXI / Đoàn Tử Huyến biên soạn; NXB Lao Động ft TT văn háo ngôn ngữ Đông Tây
- Lương Vũ Sinh 1926-2009. Nhà văn viết truyện kiếm hiệp Trung Quốc, cùng với Kim Dung, Ngọa Long Sinh, Ôn Thụy An, được coi là một trong “Võ hiệp ngữ đại gia”
Tác phẩm
1. Thư kiếm ân cừu lục (書劍恩仇錄), 19552. Bích huyết kiếm (碧血劍), 1956
3. Anh hùng xạ điêu (射雕英雄傳), 1957
4. Thần điêu hiệp lữ (神雕俠侶), 1959
5. Tuyết sơn phi hồ (雪山飛狐), 1959
6. Phi hồ ngoại truyện (飛狐外傳), 1960
7. Bạch mã khiếu tây phong (白馬嘯西風), 1961
8. Uyên Ương đao (鴛鴦刀). 1961
9. Ỷ thiên Đồ long ký (倚天屠龍記), 1961
10. Liên thành quyết (連城訣), 1963
11. Thiên long bát bộ (天龍八部), 1963
12. Hiệp khách hành (俠客行), 1965
13. Tiếu ngạo giang hồ (笑傲江湖), 1967
14. Lộc Đỉnh ký (鹿鼎記), 1969–1972
15. Việt nữ kiếm (越女劍), 1970
Các tác phẩm đã phát hành ở Việt Nam:
- Liên thành quyết - 1963. Vô Nại tiên sinh dịch
- Tổ tâm kiếm (Liên thành quyết), Hàn Giang Nhạn dịch, xuất bản trước 1975.
- Thần Điêu đại hiệp - NXB Hương Hoa, 1965. Phan Cảnh Trung dịch
- Tiếu ngạo giang hồ - in báo lần đầu 1967. Hàn Giang Nhạn dịch
- Lộc đỉnh ký - NXB Thời Đại 1972. Hàn Giang Nhạn dịch
- Anh hùng xạ điêu, Hàn Giang Nhận dịch, xuất bản trước 1975
- Thư kiếm ân cừu lục, Hàn Giang Nhạn dịch, xuất bản trước 1975
- Ỷ thiên Đồ long ký, Nguyễn Duy Chính dịch
- Anh hùng xạ điêu - Bản 2001. Cao Tự Thanh dịch
- Tiếu ngạo giang hồ - Bản bìa cứng 2001. Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh, Lê Thị Anh Đào dịch
- Ỷ thiên đồ long ký - Bản bìa cứng năm 2002. Lê Khánh Trường và Lê Việt Anh dịch
- Lộc đỉnh ký - Bản 2002. Cao Tự Thanh dịch
- Thiên long bát bộ - Bản bìa cứng năm 2003. Đông Hải dịch
- Thần điêu hiệp lữ - Bản bìa cứng năm 2003. Lê Khánh Trường dịch
- Thư kiếm ân cừu lục - Bản bìa cứng năm 2004. Đông Hải dịch
- Tiếu ngạo giang hồ - Bản 2001. Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh, Lê Thị Anh Đào dịch
- Tiếu ngạo giang hồ - Bản 2016. Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh, Lê Thị Anh Đào dịch
Chờ cập nhật thêm...
Chữ ký nhà văn Kim Dung
- Anh hùng xạ điêu - Bản 2001. Cao Tự Thanh dịch
- Tiếu ngạo giang hồ - Bản bìa cứng 2001. Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh, Lê Thị Anh Đào dịch
- Ỷ thiên đồ long ký - Bản bìa cứng năm 2002. Lê Khánh Trường và Lê Việt Anh dịch
- Lộc đỉnh ký - Bản 2002. Cao Tự Thanh dịch
- Thiên long bát bộ - Bản bìa cứng năm 2003. Đông Hải dịch
- Thần điêu hiệp lữ - Bản bìa cứng năm 2003. Lê Khánh Trường dịch
- Thư kiếm ân cừu lục - Bản bìa cứng năm 2004. Đông Hải dịch
- Tiếu ngạo giang hồ - Bản 2001. Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh, Lê Thị Anh Đào dịch
- Tiếu ngạo giang hồ - Bản 2016. Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh, Lê Thị Anh Đào dịch
Chờ cập nhật thêm...
Chữ ký nhà văn Kim Dung
Chỉnh sửa lần cuối bởi moderator: