administrator
Administrator
Thành viên BQT
Octavio Paz tên đầy đủ là Octavio Paz Lozano (31/3/1914 - 19/4/1998) là nhà thơ, nhà văn México đoạt giải Nobel Văn học năm 1990.
Tiểu sử
Octavio Paz sinh tại Thành phố Mexico. Là con một nhà báo nổi tiếng (Octavio Paz Solórzano), ông từ nhỏ đã đọc các tác phẩm của văn học thế giới, mười tuổi đã in thơ, 19 tuổi xuất bản tập thơ Luna Silvestre (Trăng hoang) khi đang học luật tại Đại học Quốc gia Mexico. 22 tuổi, ông sang Tây Ban Nha hoạt động xã hội, viết bài chống phát xít; năm 1939 trở về México viết báo và đấu tranh cho quyền lợi người lao động. Năm 1943, ông sang nghiên cứu văn hóa Mỹ với tư cách nghiên cứu sinh được học bổng của tổ chức Guggenheim. Thời kỳ này, Paz cho ra đời những tập thơ trữ tình đầy chất trí tuệ, hình tượng ẩn dụ như Raiz del hombre (Cội rễ con người), Entre la piedra y flora (Giữa đá và hoa), Libretad bajo palabra (Tự do dưới lời thề)...
Năm 1945, ông bắt đầu hoạt động ngoại giao ở Liên Hợp Quốc, làm đại sứ tại Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ... Năm 1968, ông từ chức để phản đối chính quyền Mexico đàn áp sinh viên, trở về nước tiếp tục viết văn. Năm 1972, Octavio Paz trở thành thành viên Viện Hàn lâm Mexico; năm 1981 được trao giải Miguel de Cervantes. Năm 1984 nhà nước Mexico tổ chức mừng thọ ông kéo dài 5 ngày liên tục. Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học, những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
Ông được tặng Giải Jerusalem năm 1977, Giải văn học quốc tế Neustadt năm 1982, Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức năm 1984. Năm 1990, ông được trao giải Nobel với toàn thể 15 phiếu đồng tình, một điều chưa từng thấy trong lịch sử giải[cần dẫn nguồn]. Paz mất tại Thành phố Mexico.
Tác phẩm
Tiểu sử
Octavio Paz sinh tại Thành phố Mexico. Là con một nhà báo nổi tiếng (Octavio Paz Solórzano), ông từ nhỏ đã đọc các tác phẩm của văn học thế giới, mười tuổi đã in thơ, 19 tuổi xuất bản tập thơ Luna Silvestre (Trăng hoang) khi đang học luật tại Đại học Quốc gia Mexico. 22 tuổi, ông sang Tây Ban Nha hoạt động xã hội, viết bài chống phát xít; năm 1939 trở về México viết báo và đấu tranh cho quyền lợi người lao động. Năm 1943, ông sang nghiên cứu văn hóa Mỹ với tư cách nghiên cứu sinh được học bổng của tổ chức Guggenheim. Thời kỳ này, Paz cho ra đời những tập thơ trữ tình đầy chất trí tuệ, hình tượng ẩn dụ như Raiz del hombre (Cội rễ con người), Entre la piedra y flora (Giữa đá và hoa), Libretad bajo palabra (Tự do dưới lời thề)...
Năm 1945, ông bắt đầu hoạt động ngoại giao ở Liên Hợp Quốc, làm đại sứ tại Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ... Năm 1968, ông từ chức để phản đối chính quyền Mexico đàn áp sinh viên, trở về nước tiếp tục viết văn. Năm 1972, Octavio Paz trở thành thành viên Viện Hàn lâm Mexico; năm 1981 được trao giải Miguel de Cervantes. Năm 1984 nhà nước Mexico tổ chức mừng thọ ông kéo dài 5 ngày liên tục. Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học, những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
Ông được tặng Giải Jerusalem năm 1977, Giải văn học quốc tế Neustadt năm 1982, Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức năm 1984. Năm 1990, ông được trao giải Nobel với toàn thể 15 phiếu đồng tình, một điều chưa từng thấy trong lịch sử giải[cần dẫn nguồn]. Paz mất tại Thành phố Mexico.
Tác phẩm
- Luna silvestre (Vầng trăng màu ánh bạc, 1933), thơ
- Raiz del hombre (Cội rễ con người, 1937), thơ
- Entre la piedra y flora (Giữa đá và hoa, 1941), thơ
- A la orilla del mundo (Nơi tận cùng thế giới, 1942),
- Libretad bajo palabra (Tự do dưới lời thề, 1948), thơ
- El laberinto de la soledad (Mê cung của nỗi cô đơn, 1950), biên khảo
- Aguila o sol (Chim đại bàng hay mặt trời, 1951), thơ
- El arco y la lira (Cây cung và đàn Lyre, 1956), biên khảo về thơ
- Las peras del olmo (Bóng mát cây du, 1957), phê bình văn học
- Piedra del sol (Đá mặt trời, 1957), trường ca
- Salamandra (1962), thơ
- Corriente alterna (Dòng điện xoay chiều, 1967), tiểu luận
- Blanco (1967), thơ
- East slope (Miền dốc phía Đông, 1968), thơ
- El castillo de la pureza (Lâu đài thanh khiết, 1968), tiểu luận
- Ladera Este (Bờ phía Đông, 1969), thơ
- La centena (Lúa mạch, 1969), thơ
- Posdata (Những dòng tái bút, 1970), khảo cứu
- Topoemas (Các hình thể, 1971), thơ
- Los hijos del limo (Những đứa trẻ bùn lầy, 1974), tiểu luận
- El mono gramatico (Nhà ngữ pháp khỉ, 1974), thơ
- Pasado en claro (1975), thơ
- Vuelta (1976), thơ
- Prueba del nueve (1985), thơ
- El fuego de cada día (1989), thơ