BTBookstore
Thành viên sáng lập
Ryszard Kapuściński
(1932 - 2007)
Ryszard Kapuściński, nhà báo kiệt xuất nhất của Ba Lan, sinh ngày 04/03/1932 ở Pińsk (nay thuộc Bạch Nga). Ông theo học khoa Lịch sử Đại Học Tổng Hợp Vacsava vào những năm 1952-1956. Sau khi tốt nghiệp, ông làm việc tại tòa báo "Ngọn cờ Thanh niên". Tài năng viết phóng sự của ông bắt đầu được bộc lộ, ông được cử sang Ấn Độ, Trung Quốc và sau đó là châu Phi, nơi ông đã sống 6 năm.
Năm 1968 ông trở về từ châu Phi để chữa bệnh sốt rét não và lao phổi. Nhưng ông lại lên đường ngay, đến vùng Caucasus, sang các nước miền Nam của liên bang Nga. Cũng trong năm đó, ông được cử sang Nam Mỹ và sống ở đó 5 năm.
Trong cuộc đời phóng viên của mình, ông đi qua hơn 100 quốc gia, từng chứng kiến 27 cuộc cách mạng, đã chiến đấu để sống sót trên 12 mặt trận, 4 lần bị ám sát...
Được đào tạo chuyên ngành lịch sử ở Warszawa, trong vai trò phóng viên Ba Lan chuyên viết những tường thuật, phóng sự nhiều dấu ấn tại các vùng Á, Phi, Mỹ Latin, Ryszard Kapuscinski đã bắt đầu vào nghề với những khao khát quan sát những thực tế khác biệt bên ngoài đường biên giới. Ông nếm trải những thất bại ê chề: với một vốn tiếng Anh ít ỏi khi đến Ấn Độ giữa thời “chiến tranh ngôn ngữ” đang diễn ra đầy xáo trộn, ông lạ lẫm trước một Trung Quốc rộng lớn với tư tưởng Lão, Nho sâu đậm đang “đồng phục” giữa thời khẩu hiệu “trăm hoa đua nở” của Mao Trạch Đông... Ryszard đi trong tâm thế bất an của một châu Âu đang nhiều đổ vỡ âm ỉ bên trong, giữa bối cảnh bức bối của nền độc tài tư tưởng - đơn cử như thời của Stalin thì các nhà xuất bản Ba Lan không dám in bộ sử ký tám cuốn của Herodotus viết từ thời cổ đại - chỉ vì “nó quá nhiều ẩn dụ”. Và trong cuốn sách, đã có nhiều lúc, chính Ryszard hoài nghi cả việc khai quật lịch sử của mình là một cuộc trú ẩn an toàn trước hiện tại nhiều thách thức cho ngòi bút.
Kapuściński là người đã nâng thể loại văn học phóng sự lên tầm cao mới, kết hợp phóng sự với tiểu thuyết. Ông là một nhà văn tuyệt vời. Sinh thời, tên của ông luôn có mặt trong danh sách các tác giả được đề cử trao giải Nobel văn học. Ngoài ra, ông cũng làm thơ. Thơ của ông được các nhà phê bình đánh giá cao, mặc dù ông khiêm tốn tự nhận rằng "Tôi làm thơ không hay lắm". Bài thơ đầu tiên của ông được đăng vào năm ông 17 tuổi trên tuần báo "Hôm nay và ngày mai".
Ryszard Kapuściński mất ngày 23/01/2007 tại Vácsava, Ba Lan.
Đã mười năm trôi qua kể từ ngày Ryszard Kapuściński ra đi, nhưng ông vẫn là nhà văn có tác phẩm được dịch và xuất bản ra khoảng 30 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Những phóng sự viết từ những năm 60 hay 70 của thế kỷ XX không hề mất đi tính thời sự của chúng, còn ngôn ngữ dùng để sáng tạo ra chúng thì vẫn rất hấp dẫn, thôi miên và kích thích trí tưởng tượng của đông đảo bạn đọc.
Trong các cuốn sách của mình, hầu như không bao giờ ông giới thiệu về bản thân và các quan điểm cá nhân. Ông luôn cố gắng tìm hiểu và trình bày quan điểm của cả hai phía. Ông hành xử theo những gì đã được học trong trường phái phóng sự của Ba Lan - một trường phái có tên tuổi và được đánh giá cao trên thế giới, trường phái mà ông không chỉ là người đồng sáng lập, mà bản thân còn là một trong số những ngôi sao lớn. Những thế hệ phóng viên sau này trên toàn thế giới đã học được rất nhiều điều qua các bài giảng của ông và các hội thảo về ông.
Dưới ngòi bút của Ryszard Kapuściński, những tác phẩm như Gỗ mun, Hoàng đế, Chiến tranh bóng đá, Szachinszach, Lapidarium, Thêm một ngày sống, Chân dung tự họa của người viết phóng sự, Đế chế hay cuối cùng là Du hành cùng Herodotus đã ra đời. Chúng vừa tạo nên yếu tố căn bản của phóng sự, vừa là lời khẳng định sự đam mê đặc trưng của tác giả. Mỗi cuốn sách là một kho tàng những lời khuyên quý báu về nghề nghiệp cũng như những hướng dẫn về cách sống. Chính sự linh hoạt trong sáng tác là nhân tố để sách của Kapuściński đã và đang được dịch sang hàng chục ngôn ngữ thế giới.
Năm 1968 ông trở về từ châu Phi để chữa bệnh sốt rét não và lao phổi. Nhưng ông lại lên đường ngay, đến vùng Caucasus, sang các nước miền Nam của liên bang Nga. Cũng trong năm đó, ông được cử sang Nam Mỹ và sống ở đó 5 năm.
Trong cuộc đời phóng viên của mình, ông đi qua hơn 100 quốc gia, từng chứng kiến 27 cuộc cách mạng, đã chiến đấu để sống sót trên 12 mặt trận, 4 lần bị ám sát...
Được đào tạo chuyên ngành lịch sử ở Warszawa, trong vai trò phóng viên Ba Lan chuyên viết những tường thuật, phóng sự nhiều dấu ấn tại các vùng Á, Phi, Mỹ Latin, Ryszard Kapuscinski đã bắt đầu vào nghề với những khao khát quan sát những thực tế khác biệt bên ngoài đường biên giới. Ông nếm trải những thất bại ê chề: với một vốn tiếng Anh ít ỏi khi đến Ấn Độ giữa thời “chiến tranh ngôn ngữ” đang diễn ra đầy xáo trộn, ông lạ lẫm trước một Trung Quốc rộng lớn với tư tưởng Lão, Nho sâu đậm đang “đồng phục” giữa thời khẩu hiệu “trăm hoa đua nở” của Mao Trạch Đông... Ryszard đi trong tâm thế bất an của một châu Âu đang nhiều đổ vỡ âm ỉ bên trong, giữa bối cảnh bức bối của nền độc tài tư tưởng - đơn cử như thời của Stalin thì các nhà xuất bản Ba Lan không dám in bộ sử ký tám cuốn của Herodotus viết từ thời cổ đại - chỉ vì “nó quá nhiều ẩn dụ”. Và trong cuốn sách, đã có nhiều lúc, chính Ryszard hoài nghi cả việc khai quật lịch sử của mình là một cuộc trú ẩn an toàn trước hiện tại nhiều thách thức cho ngòi bút.
Kapuściński là người đã nâng thể loại văn học phóng sự lên tầm cao mới, kết hợp phóng sự với tiểu thuyết. Ông là một nhà văn tuyệt vời. Sinh thời, tên của ông luôn có mặt trong danh sách các tác giả được đề cử trao giải Nobel văn học. Ngoài ra, ông cũng làm thơ. Thơ của ông được các nhà phê bình đánh giá cao, mặc dù ông khiêm tốn tự nhận rằng "Tôi làm thơ không hay lắm". Bài thơ đầu tiên của ông được đăng vào năm ông 17 tuổi trên tuần báo "Hôm nay và ngày mai".
Ryszard Kapuściński mất ngày 23/01/2007 tại Vácsava, Ba Lan.
Đã mười năm trôi qua kể từ ngày Ryszard Kapuściński ra đi, nhưng ông vẫn là nhà văn có tác phẩm được dịch và xuất bản ra khoảng 30 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Những phóng sự viết từ những năm 60 hay 70 của thế kỷ XX không hề mất đi tính thời sự của chúng, còn ngôn ngữ dùng để sáng tạo ra chúng thì vẫn rất hấp dẫn, thôi miên và kích thích trí tưởng tượng của đông đảo bạn đọc.
Trong các cuốn sách của mình, hầu như không bao giờ ông giới thiệu về bản thân và các quan điểm cá nhân. Ông luôn cố gắng tìm hiểu và trình bày quan điểm của cả hai phía. Ông hành xử theo những gì đã được học trong trường phái phóng sự của Ba Lan - một trường phái có tên tuổi và được đánh giá cao trên thế giới, trường phái mà ông không chỉ là người đồng sáng lập, mà bản thân còn là một trong số những ngôi sao lớn. Những thế hệ phóng viên sau này trên toàn thế giới đã học được rất nhiều điều qua các bài giảng của ông và các hội thảo về ông.
Dưới ngòi bút của Ryszard Kapuściński, những tác phẩm như Gỗ mun, Hoàng đế, Chiến tranh bóng đá, Szachinszach, Lapidarium, Thêm một ngày sống, Chân dung tự họa của người viết phóng sự, Đế chế hay cuối cùng là Du hành cùng Herodotus đã ra đời. Chúng vừa tạo nên yếu tố căn bản của phóng sự, vừa là lời khẳng định sự đam mê đặc trưng của tác giả. Mỗi cuốn sách là một kho tàng những lời khuyên quý báu về nghề nghiệp cũng như những hướng dẫn về cách sống. Chính sự linh hoạt trong sáng tác là nhân tố để sách của Kapuściński đã và đang được dịch sang hàng chục ngôn ngữ thế giới.
Các tác phẩm tiêu biểu:
- The Polish Bush (Busz po polsku) - Bụi rậm kiểu Ba Lan (1962)
- Black Stars (Czarne gwiazdy) - Những ngôi sao đen (1963)
- The Kirghiz Dismounts (Kirgiz schodzi z konia) - Kirgiz xuống ngựa (1968)
- If All Africa... (Gdyby cała Afryka) - Nếu cả châu Phi... (1969)
- Why Karl von Spreti Died (Dlaczego zginął Karl von Spreti) - Vì sao Karl von Spreti bỏ mạng (1970)
- Christ With a Rifle on His Shoulder (Chrystus z karabinem na ramieniu) - Giê-su với khẩu súng cạc bin quàng vai (1975)
- Another Day of Life (Jeszcze dzień życia) - Còn một ngày nữa của cuộc đời (1976)
- The Emperor: Downfall of an Autocrat (Cesarz) - Hoàng đế (1978)
- The Soccer War (Wojna futbolowa) - Chiến tranh túc cầu (1978)
- Shah of Shahs (Szachinszach) - Sa của các Sa (1982)
- An Invitation to Georgia (Zaproszenie do Gruzji) - Mời đến Georgia (1983)
- The Notebook (Notes) - Ghi chép (thơ, 1986)
- Lapidarium (1990)
- Imperium (Imperium) - Đế quốc (1993)
- Lapidarium II (1995)
- Lapidarium III (1997)
- The Shadow of the Sun (Heban) - Gỗ mun (1998)
- Lapidarium IV (2000)
- Từ châu Phi (2000)
- Lapidarium V (2002)
- A Reporter's Self Portrait (Autoportret reportera) - Chân dung tự họa của người phóng viên (2003)
- Travels with Herodotus (Podróże z Herodotem) - Du hành cùng Herodotus (2004)
- The Other (Ten Inny) - Người khác (2006)
- Quy luật tự nhiên (thơ, 2006)
- Lapidarium VI (2007)
Những sách đã xuất bản ở Việt Nam:
- Du hành cùng Herodotus (Podróże z Herodotem), Nguyễn Thái Linh dịch, Nhã Nam & NXB Văn Hóa Sài Gòn năm 2008 và tái bản năm 2022
- Gỗ mun (Heban), Nguyễn Thái Linh dịch, Nhã Nam & NXB Thế Giới năm 2011 và tái bản năm 2022
- Hoàng đế (Cesarz), Nguyễn Chí Thuật dịch, Thái Hà & NXB Lao Động năm 2018
Chỉnh sửa lần cuối bởi moderator: