Nobel 1960 Saint-John Perse (1887 - 1975)

Hạo Nhiên Books

Hạo Nhiên Books

Moderator
Thành viên BQT
Saint-John Perse (31/5/1887 - 20/9/1975) là nhà thơ Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1960. Ông là một nhà ngoại giao lớn của Pháp từ năm 1914 đến năm 1940, sau đó ông sống chủ yếu ở Hoa Kỳ cho đến năm 1967.
Saint-John Perse.jpg

Tiểu sử
Sait-John Perse sinh tại Pointe-à-Pitre, Guadeloupe, học luật và kinh tế chính trị, và phục vụ trong ngành ngoại giao. Năm 1899, cả gia đình ông chuyển về Pháp. Ông học luật ở Bordeaux và tự học môn kinh tế chính trị. Ra trường (1914), ông phục vụ trong ngành ngoại giao, có một sự nghiệp đầy hứa hẹn: làm đại sứ Pháp ở Bắc Kinh và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ ngoại giao Pháp.

Năm 1940, do phê phán chính sách thân Hitler của giới cầm quyền Pháp, ông bị cách chức. Ngay trước khi nước Pháp bị Đức Quốc xã chiếm đóng, ông đã kịp thời chạy trốn sang Mỹ; ông bị chính quyền Vichy tước quyền công dân, chức tước, phần thưởng và tịch thu tài sản. Từ năm 1941 tới 1945, Saint - John Perse là cố vấn văn học cho Thư viện Quốc hội Mỹ. Sau Thế chiến II, ông được phục hồi tư cách công dân và chức tước nhưng không quay trở lại nghề ngoại giao. Năm 1950, ông chính thức về hưu với danh hiệu Đại sứ của nước Pháp, sinh sống thường xuyên ở Mỹ.

Các tác phẩm văn học của ông, trong đó có tập thơ đầu tiên Tụng ca (một thể loại thơ điền viên, viết năm 1910) được xuất bản một phần dưới tên thật của ông nhưng chủ yếu dưới tên Saint-John Perse. Sau nhiều bài thơ phản ánh ấn tượng về thời niên thiếu, ông viết trường ca Anabase (tiếng Hi Lạp có nghĩa là Đi vào nội tâm) vào năm 1924 khi ông ở Trung Quốc. Đó là một tác phẩm gây ngạc nhiên cho nhiều nhà phê bình và đã có người cho rằng người Châu Á hiểu tập thơ này hơn người Phương Tây; tập trường ca đã được T.S. Eliot chuyển ngữ sang tiếng Anh năm 1930. Nhiều tác phẩm của Saint-John Perse được viết sau khi ông định cư ở Mỹ như Lưu đày (1942), Bài thơ tặng người phụ nữ nước ngoài (1943), Mưa rào (1943)... Các tác phẩm Saint-John Perse viết trong thời kỳ làm công việc ngoại giao phần lớn chưa được in, nên toàn bộ sự nghiệp văn học của ông chỉ thu lại trong bảy tập sách.

Năm 1957, Saint-John Perse quay về Pháp; mặc dù chủ yếu vẫn ở Mỹ như trước, nay ông dành một phần thời gian cùng với người vợ Mỹ cưới năm 1958 về sống tại quê nhà. Năm 1960, ông được tặng giải thưởng Nobel. Trong bài Diễn từ, ông nói về chức năng của thơ ca: "Thơ không chỉ là nhận thức, mà còn là chính cuộc sống trong sự đủ đầy trọn vẹn của nó. Nhà thơ đã sống trong lòng người ăn lông ở lỗ và sẽ sống trong lòng người thời đại nguyên tử, bởi vì thơ ca là một đặc tính không thể tách rời của nhân loại". Saint-John Perse mất năm 1975 tại Presquile-de-Giens (Pháp).
Chữ ký Saint-John Perse.jpgChữ ký Saint-John Perse (France).png
Chữ ký của Saint-John Perse

Tác phẩm
  • Éloges(1911)
    • Images à Crusoé (1909)
    • Écrit sur la porte (1910)
    • Pour fêter une enfance (1910)
    • Éloges (1911)
  • La Gloire des Rois(1948)
    • Récitation à l'éloge d'une Reine (1910)
    • Histoire du Régent (dans Éloges, 1911)
  • Anabase (1924)
  • La Gloire des Rois(1948)
    • Amitié du Prince (1924)
    • Chanson du Présomptif (1924)
    • Berceuse (1945)
  • Exil(1945)
    • Exil (1942)
    • Pluies (1944)
    • Neiges (1944)
    • Poème à l'étrangère (1942)
  • Vents (1946)
  • Amers (1957)
    • Étranger, dont la voile... (1948)
    • Et vous, mers...(1950)
    • Midi, ses fauves, ses famines (1952)
    • Mer de Baal, Mer de Mammon... (1953)
    • Des villes hautes s'éclairaient...(1953)
    • Étroits sont les vaisseaux... (1956)
  • Chronique (1960)
  • Oiseaux (1962)
  • Chanté par Celle qui fut là (1969)
  • Chant pour un équinoxe (1971)
  • Derniers Poèmes (1975)
    • Nocturne (1973)
    • Sécheresse (1974)
Tổng hợp các sách đã xuất bản: (Đang cần cập nhật)
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi moderator:
Top