administrator
Administrator
Thành viên BQT
Vicente Aleixandre tên tiếng Tây Ban Nha đầy đủ là Vicente Pablo Marcelino Cirilo Aleixandre y Merlo (26/4/1898 - 14/12/1984) là một nhà thơ người Tây Ban Nha, đại diện của "thế hệ 27 tuổi", một hiện tượng của thơ ca Tây Ban Nha thế kỷ 20, đoạt giải Nobel Văn học năm 1977.
Tiểu sử
Vicente Aleixandrelà con cả trong một gia đình kỹ sư xây dựng đường sắt; từ những năm còn nhỏ Aleixandre đã say mê đọc truyện cổ của Hans Christian Andersen, anh em nhà Grimm, Iliad của Homer, các tác phẩm của Arthur Conan Doyle, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Friedrich Schiller... Ông học luật và kinh tế tại Đại học Madrid; sau làm phụ giảng tại trường thương mại rồi chuyển sang cục quản lý đường sắt.
Năm 1925 Aleixandre bị ốm rất nặng, không còn khả năng tham gia vào các công việc khác mà dồn toàn bộ sức lực cho văn chương. Tuyển tập thơ đầu tiên của ông Ranh giới xuất hiện năm 1928. Năm 1933, ông nhận giải thưởng văn chương quốc gia cho tác phẩm La destrucción o el amor (Hủy diệt hay yêu thương) rồi năm 1944 xuất bản cuốn Sombra del parasio (Bóng Thiên đường), một bài ca viễn tưởng về hạnh phúc và cái đẹp của một con người trước ngưỡng cửa cái chết. Năm 1950, ông trở thành thành viên Viện Hàn lâm Tây Ban Nha.
Năm 1977 ông được trao giải Nobel "vì những tác phẩm thơ xuất sắc thể hiện vị trí của con người trong vũ trụ và trong xã hội hiện đại, đồng thời là chứng cứ thuyết phục về sự phục hồi của các truyền thống thơ ca Tây Ban Nha vào thời kì giữa hai cuộc chiến tranh". Thơ của Aleixandre quyến rũ và mong manh, nhưng không sầu não. Đó là nguồn sống tinh thần không cạn kiệt của đất nước Tây Ban Nha. Aleixandre sống độc thân cho đến cuối đời, ông mất tại Madrid.
Tác phẩm
Tiểu sử
Vicente Aleixandrelà con cả trong một gia đình kỹ sư xây dựng đường sắt; từ những năm còn nhỏ Aleixandre đã say mê đọc truyện cổ của Hans Christian Andersen, anh em nhà Grimm, Iliad của Homer, các tác phẩm của Arthur Conan Doyle, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Friedrich Schiller... Ông học luật và kinh tế tại Đại học Madrid; sau làm phụ giảng tại trường thương mại rồi chuyển sang cục quản lý đường sắt.
Năm 1925 Aleixandre bị ốm rất nặng, không còn khả năng tham gia vào các công việc khác mà dồn toàn bộ sức lực cho văn chương. Tuyển tập thơ đầu tiên của ông Ranh giới xuất hiện năm 1928. Năm 1933, ông nhận giải thưởng văn chương quốc gia cho tác phẩm La destrucción o el amor (Hủy diệt hay yêu thương) rồi năm 1944 xuất bản cuốn Sombra del parasio (Bóng Thiên đường), một bài ca viễn tưởng về hạnh phúc và cái đẹp của một con người trước ngưỡng cửa cái chết. Năm 1950, ông trở thành thành viên Viện Hàn lâm Tây Ban Nha.
Năm 1977 ông được trao giải Nobel "vì những tác phẩm thơ xuất sắc thể hiện vị trí của con người trong vũ trụ và trong xã hội hiện đại, đồng thời là chứng cứ thuyết phục về sự phục hồi của các truyền thống thơ ca Tây Ban Nha vào thời kì giữa hai cuộc chiến tranh". Thơ của Aleixandre quyến rũ và mong manh, nhưng không sầu não. Đó là nguồn sống tinh thần không cạn kiệt của đất nước Tây Ban Nha. Aleixandre sống độc thân cho đến cuối đời, ông mất tại Madrid.
Tác phẩm
- Ambito (Môi trường quanh ta, 1928), thơ
- Espadas como labios (Lưỡi gươm như làn môi, 1932), thơ
- La destruccion o el amor (Hủy diệt hay yêu thương, 1933), thơ
- Pasion de la tierra (Niềm đam mê của đất, 1928-1929, 1935), thơ
- Sombra del parasio (Bóng thiên đường,1944), thơ
- Mundo a solas (Thế giới thống nhất, 1936, in 1950)
- Historia del corazon (Truyện trái tim, 1954), thơ
- Los encuentros (Gặp gỡ, 1958), hồi kí
- Poemas amorosos (Thơ tình, 1960), thơ
- En un vasto dominio (Trong quyền lực của sự phù du, 1962), thơ
- Poemas de la consumacion (Thơ tiêu thụ, 1968), thơ
- Dialogos del conocimiento (Đối thoại về sự nhận thức, 1974), thơ
- Sonido de la guerra (Âm thanh cuộc chiến, 1978), thơ
- Epistolario (Thư từ, 1986), thơ
Sửa lần cuối: