Bá Tân sách chấm com
Thành viên mới
Henryk Stenkiericz, tên dầy đủ là Henryk Adam Alcksander Pius Sienkiewicz (5/5/1846 - 15/11/1916) là nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1905. Ông thường ký dưới các tác phẩm của mình bằng bút hiệu Litwos, sinh ở làng Wola Okrzejska, tỉnh Lublin, vùng đất Ba Lan thuộc Nga lúc bấy giờ.
Henryk Stenkiericz là con trai một địa chủ quí tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động kinh tế, gia đình ông phải chuyển về Warszawa, và năm 1858 ông vào học trung học tại đây, từ năm 1866 đến 1870 ông học trường đại học Tổng hợp Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Từ năm 1869, tên ông bắt đầu xuất hiện trên tạp chí sinh viên Tổng quan hàng tuần (Przeglad Tygodniowy); ra trường, ông kiếm sống bằng nghề làm báo. dac ho Nhà văn Ba Lan
Năm 1871: Khởi nghiệp văn chương
Henryk Sienkiewicz bắt đầu gây được sự chú ý của công chúng với tiểu thuyết viết từ thời sinh viên Phí hoài (Namarne, 1871) và các truyện ngắn lấy đề tài từ cuộc sống nông thôn, số phận người nông dân, như Người đầy tớ già (Stary sluga, 1875), Hania (1876), Những phác thảo bằng than (Szkice węglem, 1877), Nhạc sĩ Janko (Janko Muzykant, 1879), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo được thừa nhận tài năng, cộng tác với nhiều tòa soạn như Bảo Ba Lan (Gazeta Polska), Cánh đồng (Niwa), Tiếng nói (Słowo)...
Năm 1876, tờ Bảo Ba Lan cấp tiền cho H. Sienkiewicz đi Mĩ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về nước này (sau in thành sách Những bức thư trên duong sang Mi (Listy z podrozy do Ameryki, 1882); tại Hoa Ki, ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại Xã hội chủ nghĩa ở Anaheim (gần Los Angeles) nhưng không thành công. Từ 1878, ông trở về châu Âu, du lịch qua rất nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Năm 1879, H. Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan. Năm 1881, ông cưới vợ là Maria Szetkiewiczówna (1855 - 1885), nhưng bốn năm sau bà mất vì bệnh lao, để lại hai người con. Năm 1888, được một người hâm mộ dấu tên tặng 15 ột ngàn rúp, ông lập một quĩ từ thiện mang tên vợ ông để giúp đỡ những người hoạt động văn hóa bị bệnh lao (thời đó là một thứ bệnh nan y và phổ biến). Năm 1893, ông kết hôn lần hai với Maria Wołodkowicz (1874 - 1966), con gái của một thương gia giàu có, nhưng cuộc hôn – nhân này kết thúc không hạnh phúc, sau một thời gian ngắn họ chia tay nhau; 10 năm sau, năm 1904, ông cưới người vợ thứ 3 là Babska (1864-1925), người mà ông đã quen biết từ năm 1888.
Năm 1884 – 1889: Bộ ba tiểu thuyết lịch sử
Sau khi trở về Ba Lan, Henryk Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và trở nên thật sự nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết lịch sử, gồm Bằng lửa và gươm (Ogniem i mieczem, 1883 - 1884), Trận hồng thủy (Potop, 1884 1886), Ngài Wolodyjowski (Pan Wolodyjowski, 1887 - 1888) ; với mục đích khơi dậy lòng tự hào dân tộc Ba Lan trong thời kì đen tối khi đất nước bị chia cắt và nhiều cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm theo nhau thất bại. Cuốn tiểu thuyết thứ nhất, Bằng lửa và gươm, viết về cuộc chiến tranh giữa vương quốc Rzeczpospolita của người Ba Lan với người Cazak, Ukraina (từ 1647 đến 1651) do thủ lĩnh huyền thoại Bohdan Chmielnicki lãnh đạo; bộ sách thứ hai Trận hồng thủy gồm ba tập, mô tả cuộc chiến đấu của người Ba Lan chống cuộc xâm lăng của người Thụy Điển (1655 - 1656), mà sử sách gọi là “Trận hồng thủy Thụy Điển); trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng của bộ ba, tác giả ca ngợi những chiến công quả cảm của các hiệp sĩ Ba Lan trong cuộc kháng chiến chống quân Thổ Nhĩ Kì (1672 - 1673). Bộ ba tiểu thuyết này vừa ra đời đã được đón nhận nồng nhiệt, biến tác giả thành nhà văn Ba Lan có thu nhập cao nhất thời đó – tiền nhuận bút của ba tác phẩm này trong hai mươi năm lên đến hơn 70 ngàn rúp. Vào những năm tiếp theo, H. Sienkiewicz xuất bản tiếp hai tiểu thuyết tâm lí xã hội về cuộc sống đương thời là Không giáo điều (Bez dogmatu, 1890) và Gia đình Polaniecki (Rodzina Polaniekich, 1985), phê phán giới quí tộc thời điểm đó đang lâm vào thời iểm suy đồi.
Năm 1895-1986: Quo Vadis
Đỉnh cao thật sự trong sự nghiệp sáng tác của Henryk Sienkiewicz, tác phẩm để đời mang lại danh tiếng thế giới cho ông, là bộ tiểu thuyết Quo Vadis. Đây là một bức tranh toàn cảnh xã hội La Mã vào thế kỉ thứ nhất sau Công Nguyên dưới triều đại của Hoàng đế Nero với những mâu thuẫn chính trị xã hội và tôn giáo đã căng thẳng tới tột đỉnh giữa một bên là triều đình đa thần giáo La Mã của tên bạo chúa đang ở đinh cao nhất của quyền lực xa hoa và tàn ác nhưng đã thối nát cực độ và trên dốc suy vong; còn một bên là những người nô lệ và dân nghèo theo đạo Thiên Chúa dưới sự dẫn dắt của hai sứ đồ Piot’r và Paven không khuất phục bạo lực. Bạo chúa Nero, vì muốn được nhìn thấy lửa của một thành phố lớn đang bốc cháy để lấy cảm hứng viết nên thiên trường ca về sự triệt phá thành Troy mà hắn đang ấp ủ hòng làm lu mờ cả vinh quang của Iliad và Odyssey của Homer, đã khiến lũ triều thần xu nịnh đốt cháy thành Roma. Nhưng hèn nhát, sợ quân chúng căm giận nổi dậy trả thù, hắn tìm cách trút tội cho những người Thiên Chúa giáo, và bằng cách đó tạo ra cuộc tàn sát hàng loạt tín đồ giáo phái này, - ném cho thú dữ xé xác, đóng đinh lên cây thập giá, thiêu sống trên dàn lửa... Nhưng cuối cùng, kẻ gây ra tội ác phải đền tội, và tên bạo chúa trước cái chết lại hèn nhát một cách nhục nhã: không đâm nổi nhát dao vào cổ để tự sát. Những sự kiện lịch sử đó được đan quyện tài tình câu chuyện tình éo h với cầu le giữa chàng quí tộc trẻ tuổi Marcus Vinicius, cận thần của Nero, với nàng Ligia, tín đồ Thiên Chúa giáo vốn là công chúa của bộ tộc Ligi bị Nero giữ làm con tin. Chính tình yêu mãnh liệt đó đã làm cho Vinicius biến cải, nhận thức được giáo thuyết của đạo Thiên Chúa giàu lòng nhẫn nhục và nhân đạo. Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật lớn lao, ngay từ khi ra đời Quo Vadis đã được hoan nghênh nhiệt liệt, gây nên những chấn động mạnh trong giới văn học thế giới. Cho đến nay, Quo Vadis đã được dịch ra trên 40 thứ tiếng, nhiều lần được đưa lên sân khấu và màn ảnh, trở thành đề tài của không ít công trình khảo cứu không những ở Ba Lan mà trên phạm vi toàn thế giới.
Năm 1900: Hiệp sĩ Thập tự
Trong những năm tiếp theo, Henryk Sienkiewicz sáng tác bộ tiểu thuyết lịch sử Hiệp sĩ Thập tự) (Krzyzacy, 1897 - 1900) miêu tả cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Ba Lan vào thế kỉ XV chống lại đội quân của các Hiệp sĩ Teuton”, những người từ lâu đã hoàn thành sứ mạng ban đầu của mình nay lại trở thành một tổ chức đàn áp những lực lượng đối lập, khác giáo phái, thèm khát quyền lực và đất đai hơn là phụng sự cây Thánh giá mà họ mang trên mình như một biểu tượng thiêng liêng. Trong tác phẩm, nhà văn mô tả cuộc chiến chống lại đế quốc Phổ, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Ba Lan, hiện tại âm mưu nô dịch người Ba Lan. Các nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết - Jurand Spychowa và con gái của ông Danusia; hiệp sĩ Ba Lan Maćko Bogdanca thô lỗ, tham lam, gắn chặt vào lợi ích của gia đình, nhưng dũng cảm; chàng quí tộc Zbyszko Bogdanca đầu óc lúc nào cũng chứa đầy những câu chuyện phiêu lưu hiệp sĩ. Mối tình bi thảm của Zbyszko Bogdanca và Danusia làm nên tuyến tình cảm của cuốn sách. Điểm đỉnh của tiểu thuyết là trận chiến thắng ở Grunwald của liên minh Ba Lan - Litva, trong đó đội quân của các Hiệp sĩ Teuton bị nghiền nát. Năm 1960, kỉ niệm 550 trận Grunwald, đạo diễn Alexander Ford đã đưa Hiệp sĩ Thập tự lên màn ảnh. Đến nay cuốn tiểu thuyết đã được dịch ra gần 30 thứ tiếng.
Năm 1905: Giải Nobel
Năm 1905, ông được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử, mà cụ thể là tác phẩm Quo Vadis. Viện Hàn lâm Thụy Điển đánh giá ông là: “Một trong những thiên tài hiếm hoi thể hiện được tinh thần dân tộc... Sáng tác của H. Sienkiewicz vừa có tầm bao quát rộng vừa được suy tính kĩ lưỡng, văn phong sử thi đạt đến độ hoàn thiện nghệ thuật”.
Trong thời kì gần cuối đời, sau khoảng 10 năm bệnh tật liên miên H. Sienkiewicz tiếp tục sáng tác và cho ra đời cuốn tiểu thuyết phiêu lưu xuất sắc dành cho bạn đọc trẻ tuổi Trên sa mạc và trong rừng thẳm (W pustyni w puszczy, 1912). Cuốn sách cuối cùng mà nhà văn không kịp hoàn thành Những đội quân lê dương (Legiony, 1914) cũng là một tiểu thuyết lịch sử. Thế chiến I nổ ra, Henryk Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916, ông mất ở thị trấn Vevey (Thụy Sĩ), thọ 70 tuổi.
Tám năm sau, thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ Thánh Jan. Tác phẩm của Henryk Sienkiewicz đã được dịch sang tiếng Việt khá nhiều, đặc biệt hai bản dịch Quo Vadis và Trên sa mạc và trong rừng thẳm của Nguyễn Hữu Dũng được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1987)
Tác phẩm
- Bạo chúa Néron - Sầm Sơn xuất bản 1/1975. Ngũ Văn Bằng dịch
- Quo Vadis, Nguyễn Hữu Dũng dịch
- Trên sa mạc và trong rừng thẳm, Nguyễn Hữu Dũng dịch
- Hania - NXB Văn Học 1986. Nguyễn Hữu Dũng dịch
- Chú bé nhạc sĩ - NXB Phụ Nữ, 1988. Từ Đức Hòa dịch
- Trên bờ biển sáng - NXB Văn Học, 2000. Nguyễn Hữu Dũng, Lê Bá Thự dịch
- Nàng thứ ba - NXB Văn Học, 2004. Lê Bá Thự dịch
- Trên sa mạc và trong rừng thẳm - NXB Kim Đồng 2020. Nguyễn Văn Thái dịch
Henryk Stenkiericz là con trai một địa chủ quí tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động kinh tế, gia đình ông phải chuyển về Warszawa, và năm 1858 ông vào học trung học tại đây, từ năm 1866 đến 1870 ông học trường đại học Tổng hợp Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Từ năm 1869, tên ông bắt đầu xuất hiện trên tạp chí sinh viên Tổng quan hàng tuần (Przeglad Tygodniowy); ra trường, ông kiếm sống bằng nghề làm báo. dac ho Nhà văn Ba Lan
Năm 1871: Khởi nghiệp văn chương
Henryk Sienkiewicz bắt đầu gây được sự chú ý của công chúng với tiểu thuyết viết từ thời sinh viên Phí hoài (Namarne, 1871) và các truyện ngắn lấy đề tài từ cuộc sống nông thôn, số phận người nông dân, như Người đầy tớ già (Stary sluga, 1875), Hania (1876), Những phác thảo bằng than (Szkice węglem, 1877), Nhạc sĩ Janko (Janko Muzykant, 1879), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo được thừa nhận tài năng, cộng tác với nhiều tòa soạn như Bảo Ba Lan (Gazeta Polska), Cánh đồng (Niwa), Tiếng nói (Słowo)...
Năm 1876, tờ Bảo Ba Lan cấp tiền cho H. Sienkiewicz đi Mĩ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về nước này (sau in thành sách Những bức thư trên duong sang Mi (Listy z podrozy do Ameryki, 1882); tại Hoa Ki, ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại Xã hội chủ nghĩa ở Anaheim (gần Los Angeles) nhưng không thành công. Từ 1878, ông trở về châu Âu, du lịch qua rất nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Năm 1879, H. Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan. Năm 1881, ông cưới vợ là Maria Szetkiewiczówna (1855 - 1885), nhưng bốn năm sau bà mất vì bệnh lao, để lại hai người con. Năm 1888, được một người hâm mộ dấu tên tặng 15 ột ngàn rúp, ông lập một quĩ từ thiện mang tên vợ ông để giúp đỡ những người hoạt động văn hóa bị bệnh lao (thời đó là một thứ bệnh nan y và phổ biến). Năm 1893, ông kết hôn lần hai với Maria Wołodkowicz (1874 - 1966), con gái của một thương gia giàu có, nhưng cuộc hôn – nhân này kết thúc không hạnh phúc, sau một thời gian ngắn họ chia tay nhau; 10 năm sau, năm 1904, ông cưới người vợ thứ 3 là Babska (1864-1925), người mà ông đã quen biết từ năm 1888.
Năm 1884 – 1889: Bộ ba tiểu thuyết lịch sử
Sau khi trở về Ba Lan, Henryk Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và trở nên thật sự nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết lịch sử, gồm Bằng lửa và gươm (Ogniem i mieczem, 1883 - 1884), Trận hồng thủy (Potop, 1884 1886), Ngài Wolodyjowski (Pan Wolodyjowski, 1887 - 1888) ; với mục đích khơi dậy lòng tự hào dân tộc Ba Lan trong thời kì đen tối khi đất nước bị chia cắt và nhiều cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm theo nhau thất bại. Cuốn tiểu thuyết thứ nhất, Bằng lửa và gươm, viết về cuộc chiến tranh giữa vương quốc Rzeczpospolita của người Ba Lan với người Cazak, Ukraina (từ 1647 đến 1651) do thủ lĩnh huyền thoại Bohdan Chmielnicki lãnh đạo; bộ sách thứ hai Trận hồng thủy gồm ba tập, mô tả cuộc chiến đấu của người Ba Lan chống cuộc xâm lăng của người Thụy Điển (1655 - 1656), mà sử sách gọi là “Trận hồng thủy Thụy Điển); trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng của bộ ba, tác giả ca ngợi những chiến công quả cảm của các hiệp sĩ Ba Lan trong cuộc kháng chiến chống quân Thổ Nhĩ Kì (1672 - 1673). Bộ ba tiểu thuyết này vừa ra đời đã được đón nhận nồng nhiệt, biến tác giả thành nhà văn Ba Lan có thu nhập cao nhất thời đó – tiền nhuận bút của ba tác phẩm này trong hai mươi năm lên đến hơn 70 ngàn rúp. Vào những năm tiếp theo, H. Sienkiewicz xuất bản tiếp hai tiểu thuyết tâm lí xã hội về cuộc sống đương thời là Không giáo điều (Bez dogmatu, 1890) và Gia đình Polaniecki (Rodzina Polaniekich, 1985), phê phán giới quí tộc thời điểm đó đang lâm vào thời iểm suy đồi.
Năm 1895-1986: Quo Vadis
Đỉnh cao thật sự trong sự nghiệp sáng tác của Henryk Sienkiewicz, tác phẩm để đời mang lại danh tiếng thế giới cho ông, là bộ tiểu thuyết Quo Vadis. Đây là một bức tranh toàn cảnh xã hội La Mã vào thế kỉ thứ nhất sau Công Nguyên dưới triều đại của Hoàng đế Nero với những mâu thuẫn chính trị xã hội và tôn giáo đã căng thẳng tới tột đỉnh giữa một bên là triều đình đa thần giáo La Mã của tên bạo chúa đang ở đinh cao nhất của quyền lực xa hoa và tàn ác nhưng đã thối nát cực độ và trên dốc suy vong; còn một bên là những người nô lệ và dân nghèo theo đạo Thiên Chúa dưới sự dẫn dắt của hai sứ đồ Piot’r và Paven không khuất phục bạo lực. Bạo chúa Nero, vì muốn được nhìn thấy lửa của một thành phố lớn đang bốc cháy để lấy cảm hứng viết nên thiên trường ca về sự triệt phá thành Troy mà hắn đang ấp ủ hòng làm lu mờ cả vinh quang của Iliad và Odyssey của Homer, đã khiến lũ triều thần xu nịnh đốt cháy thành Roma. Nhưng hèn nhát, sợ quân chúng căm giận nổi dậy trả thù, hắn tìm cách trút tội cho những người Thiên Chúa giáo, và bằng cách đó tạo ra cuộc tàn sát hàng loạt tín đồ giáo phái này, - ném cho thú dữ xé xác, đóng đinh lên cây thập giá, thiêu sống trên dàn lửa... Nhưng cuối cùng, kẻ gây ra tội ác phải đền tội, và tên bạo chúa trước cái chết lại hèn nhát một cách nhục nhã: không đâm nổi nhát dao vào cổ để tự sát. Những sự kiện lịch sử đó được đan quyện tài tình câu chuyện tình éo h với cầu le giữa chàng quí tộc trẻ tuổi Marcus Vinicius, cận thần của Nero, với nàng Ligia, tín đồ Thiên Chúa giáo vốn là công chúa của bộ tộc Ligi bị Nero giữ làm con tin. Chính tình yêu mãnh liệt đó đã làm cho Vinicius biến cải, nhận thức được giáo thuyết của đạo Thiên Chúa giàu lòng nhẫn nhục và nhân đạo. Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật lớn lao, ngay từ khi ra đời Quo Vadis đã được hoan nghênh nhiệt liệt, gây nên những chấn động mạnh trong giới văn học thế giới. Cho đến nay, Quo Vadis đã được dịch ra trên 40 thứ tiếng, nhiều lần được đưa lên sân khấu và màn ảnh, trở thành đề tài của không ít công trình khảo cứu không những ở Ba Lan mà trên phạm vi toàn thế giới.
Năm 1900: Hiệp sĩ Thập tự
Trong những năm tiếp theo, Henryk Sienkiewicz sáng tác bộ tiểu thuyết lịch sử Hiệp sĩ Thập tự) (Krzyzacy, 1897 - 1900) miêu tả cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Ba Lan vào thế kỉ XV chống lại đội quân của các Hiệp sĩ Teuton”, những người từ lâu đã hoàn thành sứ mạng ban đầu của mình nay lại trở thành một tổ chức đàn áp những lực lượng đối lập, khác giáo phái, thèm khát quyền lực và đất đai hơn là phụng sự cây Thánh giá mà họ mang trên mình như một biểu tượng thiêng liêng. Trong tác phẩm, nhà văn mô tả cuộc chiến chống lại đế quốc Phổ, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Ba Lan, hiện tại âm mưu nô dịch người Ba Lan. Các nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết - Jurand Spychowa và con gái của ông Danusia; hiệp sĩ Ba Lan Maćko Bogdanca thô lỗ, tham lam, gắn chặt vào lợi ích của gia đình, nhưng dũng cảm; chàng quí tộc Zbyszko Bogdanca đầu óc lúc nào cũng chứa đầy những câu chuyện phiêu lưu hiệp sĩ. Mối tình bi thảm của Zbyszko Bogdanca và Danusia làm nên tuyến tình cảm của cuốn sách. Điểm đỉnh của tiểu thuyết là trận chiến thắng ở Grunwald của liên minh Ba Lan - Litva, trong đó đội quân của các Hiệp sĩ Teuton bị nghiền nát. Năm 1960, kỉ niệm 550 trận Grunwald, đạo diễn Alexander Ford đã đưa Hiệp sĩ Thập tự lên màn ảnh. Đến nay cuốn tiểu thuyết đã được dịch ra gần 30 thứ tiếng.
Năm 1905: Giải Nobel
Năm 1905, ông được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử, mà cụ thể là tác phẩm Quo Vadis. Viện Hàn lâm Thụy Điển đánh giá ông là: “Một trong những thiên tài hiếm hoi thể hiện được tinh thần dân tộc... Sáng tác của H. Sienkiewicz vừa có tầm bao quát rộng vừa được suy tính kĩ lưỡng, văn phong sử thi đạt đến độ hoàn thiện nghệ thuật”.
Trong thời kì gần cuối đời, sau khoảng 10 năm bệnh tật liên miên H. Sienkiewicz tiếp tục sáng tác và cho ra đời cuốn tiểu thuyết phiêu lưu xuất sắc dành cho bạn đọc trẻ tuổi Trên sa mạc và trong rừng thẳm (W pustyni w puszczy, 1912). Cuốn sách cuối cùng mà nhà văn không kịp hoàn thành Những đội quân lê dương (Legiony, 1914) cũng là một tiểu thuyết lịch sử. Thế chiến I nổ ra, Henryk Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916, ông mất ở thị trấn Vevey (Thụy Sĩ), thọ 70 tuổi.
Tám năm sau, thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ Thánh Jan. Tác phẩm của Henryk Sienkiewicz đã được dịch sang tiếng Việt khá nhiều, đặc biệt hai bản dịch Quo Vadis và Trên sa mạc và trong rừng thẳm của Nguyễn Hữu Dũng được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1987)
Tác phẩm
- 1872: En vain
- 1875: Le Vieux Serviteur
- 1876: Hania
- 1877: Les Humoresques
- 1877: Esquisses au fusain
- 1877: Selim Mirza
- 1878: La Comédie des erreurs, esquisse de la vie américaine
- 1879: Janko le musicien
- 1879: Les Steppes de Nebraska
- 1880: Pages d'Amérique, récits de l'émigration
- 1880: Sous le joug, chroniques d'Alexis Zdanoborski, gentilhomme polonais
- 1880: Extrait du journal d'un instituteur posnanien
- 1880: Pour le pain
- 1880: Orso
- 1881: Les Abeilles de Californie
- 1881: L'Allumeur du phare
- 1882: Yamyol
- 1882: Bartek vainqueur
- 1883: Czyja wina
- Bộ ba: 1884: Par le fer et par le feu, 1886: Le Déluge, 1888: Messire Wolodowski
- 1888: Cette troisième ! (Ta trzecia)
- 1889: Sois bénie ! légende indienne
- 1888: Wycieczka do Aten
- 1889: Souvenirs d'un voyage à Maripoza
- 1890: Listy z Afryki
- 1891: Sans dogme
- 1892: À la source du bonheur
- 1892: Allons à lui
- 1894: La Famille Polanieck
- 1894: Une idylle dans la prairie
- 1894: Lux in tenebris lucet
- 1894: Le Jugement de Zeus
- 1894: L'Organiste de Ponikla
- 1896: Quo vadis?
- 1897: Sur la côte d’azur
- 1900: Les Chevaliers teutoniques
- 1903: Les Deux Prairies
- 1903: Une nuit au sommet de l'Olympe
- 1905: Au champ de gloire
- 1905: Une idylle dans la forêt
- 1910: Tourbillons
- 1912: Le Gouffre noir
- 1914: Legiony
- Bạo chúa Néron - Sầm Sơn xuất bản 1/1975. Ngũ Văn Bằng dịch
- Quo Vadis, Nguyễn Hữu Dũng dịch
- Trên sa mạc và trong rừng thẳm, Nguyễn Hữu Dũng dịch
- Hania - NXB Văn Học 1986. Nguyễn Hữu Dũng dịch
- Chú bé nhạc sĩ - NXB Phụ Nữ, 1988. Từ Đức Hòa dịch
- Trên bờ biển sáng - NXB Văn Học, 2000. Nguyễn Hữu Dũng, Lê Bá Thự dịch
- Nàng thứ ba - NXB Văn Học, 2004. Lê Bá Thự dịch
- Trên sa mạc và trong rừng thẳm - NXB Kim Đồng 2020. Nguyễn Văn Thái dịch
Chỉnh sửa lần cuối bởi moderator: